Mạch ngầm văn bản
trong truyện ngắn và truyện vừa của A.P.Chekhov
Đỗ Hải Phong
Người đầu tiên đề cập đến mạch
ngầm văn bản trong sáng tác của A.Chekhov là đạo diễn và nhà lý luận sân khấu
K.Stanislavsky. Khi dựng kịch của Chekhov, Stanislavsky nhận thấy có một
"dòng chảy ngầm", một "leitmotiv tinh thần" ẩn đằng sau
những hành động, dàn cảnh mang nặng chất "đời thường" và lời thoại
trong những vở kịch đó[1].
Đặc điểm mà Stanislavsky nhận
thấy ở kịch Chekhov liên quan mật thiết với nguyên tắc sáng tác của nhà văn và
thực tế cũng là đặc điểm của cả các truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov,
đặc biệt là sau năm 1885 (tức là sau giai đoạn “Antonsa Chekhonte”, khi nguyên
tắc sáng tác của nhà văn đã được định hình). So sánh truyện ngắn của G.de
Maupassant với truyện ngắn của A.Chekhov, nhà phê bình người Pháp E.Jaloux nhận
định: "Ở Maupassant người kể chuyện toàn tâm toàn ý với điều anh ta kể. Ở
Chekhov ta luôn cảm nhận được có một cái gì đó ẩn hiện dưới điều được kể. Và điều
không được nói ra ấy, có lẽ, lại là điều quan trọng nhất"[2].
Nhiều nhà nghiên cứu Nga cũng có những nhận định tương tự khi nói về "lớp
nghĩa hàm ẩn", "độ sâu văn bản", "chủ nghĩa tâm lý mạch
ngầm", "sự mỉa mai nội tại", "mạch ngầm trữ tình"
trong các truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov[3].
Mạch ngầm văn bản "ẩn
hiện dưới điều được kể" trong truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov không
chỉ làm tăng dung lượng thông tin, xúc cảm thích ứng với nguyên tắc "kiệm
ngôn" cho những tác phẩm văn xuôi "thể loại nhỏ" của nhà văn, nó
còn góp phần làm nên diện mạo riêng của Chekhov trên văn đàn. Khai thác được
mạch ngầm văn bản của Chekhov thực chất mới là tìm đến được "điều quan
trọng nhất" trong sáng tác của ông.
Trong bài viết này chúng tôi
khảo sát mạch ngầm văn bản trong truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov trên ba
bình diện chủ yếu:
- Mạch ngầm văn bản và nguyên
tắc sáng tác của Chekhov;
- Phương thức tạo dựng mạch
ngầm văn bản và các "tín hiệu" của nó;
- Mạch ngầm tự sự và mạch ngầm
trữ tình.
Mạch ngầm văn bản (tiếng Nga: подтекст; tiếng Anh: underlying
theme) trong văn học vốn là một khái niệm chưa hoàn toàn được xác định
thống nhất. Trong giới nghiên cứu có khuynh hướng qui nó về khái niệm "hàm
ý"(tiếng Nga: импликация ;tiếng Anh: implication) và do vậy mở rộng phạm vi
khái niệm của nó tới gần như vô hạn định. Nhà nghiên cứu D.Zatonsky từng tuyên
bố: "Tạo nên hình tượng có nghĩa là tạo nên cả mạch ngầm văn bản... mạch
ngầm văn bản có trong mỗi tác phẩm văn học"[4].
Không nhất trí với khuynh hướng xác định khái niệm này, chúng tôi cho rằng:
mạch ngầm văn bản tồn tại với những "tín hiệu" được tác giả cố ý sắp đặt
dường như rời rạc, tình cờ trên bề mặt văn bản, nhưng thực chất lại có khả năng
kết hợp thành một “dòng chảy” ngữ nghĩa, ngữ cảm ngầm dưới văn bản; “dòng chảy”
này có thể được thiết lập nhờ sự tổng hợp, liên tưởng, liên kết, đối chiếu các
"tín hiệu" với nhau và với vốn tri thức, xúc cảm chung mặc định giữa
tác giả và độc giả; không cần phải làm tăng độ dài của văn bản, mạch ngầm văn
bản bổ sung thêm một lớp nghĩa cho văn bản hoặc làm biến đổi lớp nghĩa trực tiếp
chứ không thay thế hoàn toàn lớp nghĩa đó (như trong phúng dụ hay tượng trưng);
thuật ngữ "mạch ngầm văn bản" chỉ rõ mối liên quan của lớp nghĩa bổ
sung/biến đổi nghĩa trực tiếp này với văn bản như một chỉnh thể, chứ không mơ
hồ như thuật ngữ "hàm ý" vốn có thể ứng dụng cho những đơn vị ngôn
ngữ khác nhau không mang tính chỉnh thể.
Mạch ngầm văn bản được hiểu
như vậy đặc biệt thích ứng với nguyên tắc sáng tác của Chekhov.
Năm 1886, trong thư gửi cho
anh trai của mình, A.P. Chekhov có đưa ra 6 điều kiện tiên quyết để có một tác
phẩm nghệ thuật: “1) không có những biện luận dông dài mang tính chất kinh tế-
xã hội- chính trị; 2) hoàn toàn khách quan; 3) chân thực trong miêu tả nhân vật
và sự vật; 4) hết sức ngắn gọn; 5) dũng cảm và độc đáo; tránh sáo mòn; 6) lòng
nhiệt thành”[5].
Quan niệm về tác phẩm nghệ thuật
của Chekhov phản ánh nguyên tắc sáng tác của chính nhà văn.
Như các cây bút vĩ đại khác
của văn học Nga thế kỷ XIX, Chekhov coi tính “chân thực” là điều kiện tiên
quyết của tác phẩm nghệ thuật, nhà văn từng viết: “Văn học được gọi là nghệ
thuật chính bởi nó miêu tả cuộc sống như nó đang có trên thực tế. Mục đích của
nó là sự thật tuyệt đối và trung thực”(XIII,262).
Cuộc sống như nó đang có trên thực tế, theo Chekhov, là một cuộc sống với tất
cả những điều tầm thường vặt vãnh, quẩn quanh, với những con người bình thường
của đời thường. Đó là một cuộc sống với những vận động bề mặt hết sức đơn điệu
và tẻ nhạt, nhưng lại ngầm ẩn chứa những vận động tâm trạng phức tạp và tinh
tế: những day dứt, bức bối, những sự bừng tỉnh bất ngờ, những dự cảm, ước mơ
đôi lúc còn mơ hồ chưa được ý thức hết. Chekhov từng nói về đối tượng miêu tả
của sân khấu cũng như của nghệ thuật nói chung: “Hãy để trên sân khấu mọi điều
thật phức tạp và đồng thời lại thật giản đơn như trong cuộc sống. Người ta ăn
trưa, chỉ ăn trưa thôi, mà trong khi đó hạnh phúc của họ đang nhen nhúm, và
cuộc đời của họ đang tan vỡ”[6].
Miêu tả cuộc sống đời thường,
Chekhov không chấp nhận lối viết “đại ngôn” của những nhà văn lớp trước như
Ph.Dostoevsky, L.Tolstoy với những nhân vật kỳ vĩ, những học thuyết lớn lao
được phát biểu hùng hồn tới mức cực đoan, phần nào mang tính chủ quan trong tác
phẩm. Chekhov chủ trương thủ tiêu “biện luận dông dài mang tính kinh tế- xã
hội- chính trị” và yêu cầu phải “hoàn toàn khách quan”. Cả hai yêu cầu này thực
chất đều là yêu cầu loại trừ tính chủ quan được phát ngôn trực tiếp trong tác
phẩm, thích ứng với nguyên tắc “hết sức ngắn gọn” mà nhà văn đề ra. Chekhov
từng viết cho anh trai: “Đừng thọc mũi vào nhân vật tiểu thuyết của mình, hãy
từ bỏ chính mình dù chỉ trong nửa tiếng... Chủ quan tính là thứ khủng
khiếp...”(XIII,48). Trong thư gửi
L.Avilova, Chekhov khuyên nữ văn sĩ phải biết “viết lạnh lùng” và lý giải rõ
hơn: “Cần phải thản nhiên khi viết những truyện thương tâm... Có thể đau khổ
cùng nhân vật, nhưng, theo tôi, cần phải làm điều đó thế nào để người đọc không
nhận thấy. Càng khách quan, ấn tượng sẽ càng lớn”(XV,375). Viết “lạnh lùng, thản nhiên” được hiểu như vậy không có nghĩa
là từ bỏ hoàn toàn cái tôi của tác giả, mà chỉ là khả năng “kiềm chế” để không
phát ngôn trực tiếp. “Độc đáo”, “nhiệt thành” vẫn được coi là những tiêu chí
quan trọng trong bảng giá trị tác phẩm nghệ thuật của Chekhov. Chekhov tâm sự
với A.Suvorin: “Tất nhiên, giá như có thể kết hợp tính nghệ thuật với lời
truyền giảng thì cũng thú, nhưng đối với tôi điều đó vô cùng khó và hầu như là
không thể trong điều kiện thuật viết của tôi... Nếu tôi thêm phần chủ quan vào,
các hình tượng sẽ không nhất quán và truyện ngắn sẽ không cô đọng như mọi
truyện ngắn cần phải thế. Khi tôi viết, tôi hoàn toàn trông đợi vào độc giả,
tôi cho rằng những thành tố chủ quan còn thiếu trong truyện độc giả sẽ tự thêm
vào”(XV,51).
Không muốn làm tăng độ dài của
văn bản ảnh hưởng tới sự “cô đọng”, không muốn “đại ngôn” trực tiếp gây phản
cảm cho người đọc, Chekhov vẫn muốn “lòng nhiệt thành” của nhà văn ngầm đến
được với độc giả, tìm được tiếng nói chung, “tâm trạng chung” với độc giả thông
qua việc “miêu tả cuộc sống như nó đang có”. Ý hướng tới độc giả và nhu cầu
“kiệm ngôn” đòi hỏi Chekhov phải có một phương pháp tổ chức tác phẩm mới, “độc
đáo” đối với thời đại của mình. Phương thức tổ chức tác phẩm ấy chính là tạo
dựng được một mạch ngầm văn bản đặc trưng cho văn phong của Chekhov. Mạch ngầm
văn bản, một mặt, đáp ứng được nhu cầu viết “cô đọng” sao cho “lời chật ý
rộng”, mặt khác, lại khai thác được hết mức mối liên hệ tích cực, chủ động giữa
cả 3 thành tố của hoạt động nghệ thuật: tác giả - văn bản nghệ thuật - độc giả.
Một điều quan trọng nữa là mạch ngầm văn bản có thể bổ sung thêm một lớp nghĩa
mới cho văn bản tác phẩm mà không thay thế hoàn toàn lớp nghĩa trực tiếp vốn
thể hiện chất nhựa sống của vật chất “đời thường” không thể thiếu được trong
tác phẩm của Chekhov. Hơn nữa, tổ chức được mạch ngầm văn bản cũng có nghĩa là
tạo được một “dòng chảy ngầm” với “những vận động” có thể là nhỏ bé, nhưng liên
tục bên dưới “những điều vặt vãnh”, “tình cờ” trong một thế giới tưởng như tù
đọng vốn là đối tượng miêu tả chủ yếu trong văn xuôi Chekhov; những vận động
này giúp cho “những điều vặt vãnh” không “chồng chéo lên nhau”, như Chekhov
từng lưu ý nữ văn sĩ E.Shavrova (XVI,395),
mà liên kết được với nhau làm nên “tâm trạng chung”, “âm điệu chung” của tác
phẩm.
Cần nói thêm rằng những điều
“vặt vãnh”, “tình cờ” trong tác phẩm của Chekhov phần nhiều lại chính là những
“tín hiệu” của mạch ngầm văn bản. Trong cuốn sách nổi tiếng “Thi pháp
Chekhov”(1971), nhà nghiên cứu A.Chudacov đã khảo sát rất kỹ “những điều vặt
vãnh”, “tình cờ” này trong hệ thống thi pháp của nhà văn và khẳng định rằng
trong sáng tác của Chekhov “Tinh thần không chiếm ưu thế so với vật chất”[7].
Có thể đồng ý với nhà nghiên cứu ở điểm này: tinh thần trong sáng tác của
Chekhov bao giờ cũng chỉ có thể được toát lên từ chính “những điều vặt vãnh”,
tưởng như “tình cờ” của cuộc sống vật chất và chỉ có thể được khẳng định bằng
cuộc sống vật chất ấy. Tuy nhiên, không thể đồng ý với A.Chudacov khi nhà
nghiên cứu tuyệt đối hoá những “chi tiết tình cờ” trong sáng tác của Chekhov,
gọi chúng là “những chi tiết thừa”, cho rằng chúng “tự thân tình cờ... trong
toàn vẹn ý nghĩa... không thể xếp vào bất cứ hệ thống nào”, “...không thể có
một ý nghĩa thống nhất, một “mạch ngầm”, “tâm trạng” thống nhất”[8].
Chúng tôi cho rằng không thể khẳng định điều đó, bởi chính Chekhov đã từng
tuyên bố: “Trong nghệ thuật, cũng như trong cuộc sống không có gì tình cờ hết
cả”(XX,288). Nhà văn đã từng phê bình
E.Shavrova về “những nhân vật thừa”, “những chi tiết thừa”(XVI,218) trong truyện ngắn của bà. Vào năm
1889 nhà văn viết cho A.Suvorin: “Nói chung, tôi cố gắng tránh sự thừa thãi, và
tôi cảm thấy mình đã đạt được điều đó”(XIV,366).
Tuyệt đối hoá cái “tình cờ”, “thừa thãi” trong sáng tác của Chekhov, A.Chudacov
đã không thể dẫn được một lời nào của nhà văn để minh chứng cho quan điểm của
mình. Trên thực tế, mong muốn phản ánh hiện thực một cách toàn vẹn trong tổng
thể vật chất và tinh thần, luôn đặt yêu cầu “ngắn gọn, cô đọng” lên hàng đầu và
luôn tin tưởng vào khả năng thẩm thấu văn bản của độc giả, Chekhov đã cố gắng
sắp xếp những chi tiết vặt vãnh tưởng như rời rạc tình cờ của “cuộc sống như nó
đang có” vào một “dòng chảy ngầm” dưới văn bản tác phẩm để cuộc sống được miêu
tả trong văn bản “tự nó nói lên” với độc giả cả ý nghĩa khách quan của nó, cả
thái độ của tác giả đối với nó. Mạch ngầm văn bản hoá giải những chi tiết “tình
cờ”, “thừa thãi” trên bề mặt văn bản tác phẩm của Chekhov, chỉ ra tính qui
luật, sự chặt chẽ của chúng. Đúng là trong sáng tác của Chekhov tràn ngập cái
dường như “tình cờ”, nhưng cái thật sự “tình cờ” hầu như không có. Nhà nghiên
cứu Z.Papernưi nhận định rất xác đáng về vấn đề này: “Đặc điểm khó nắm bắt và
sự hấp dẫn của chi tiết trong sáng tác của Chekhov chính là ở tính không tình
cờ một cách sâu sắc của nó thể hiện dưới dạng thức tình cờ”[9].
Mạch ngầm văn bản góp phần tạo nên cả sự “khó nắm bắt” lẫn “sự hấp dẫn” ấy.
Như vậy, mạch ngầm văn bản
trong truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov “thoát thai” từ những nhu cầu nội
tại trong nguyên tắc sáng tác của nhà văn, góp phần làm nên nét riêng cho phong
cách văn xuôi Chekhov.
* * *
Trong bài viết “Mạch ngầm văn
bản – đó là độ sâu văn bản”(1969) nhà nghiên cứu T.I.Sylman khẳng định mạch
ngầm văn bản là một hiện tượng thuộc về kết cấu trong tác phẩm nghệ thuật. Theo
Sylman, mạch ngầm văn bản “được tạo dựng bởi sự lặp lại của một số thành tố rời
rạc, cách xa nhau”, “nổi lên” trên bề mặt văn bản; quan hệ qua lại phức tạp
giữa các thành tố này làm “nảy sinh một lớp nghĩa mới, sâu hơn”[10].
Chúng tôi gọi các thành tố này là những “tín hiệu” của mạch ngầm văn bản.
Phương thức tạo dựng mạch ngầm văn bản trong truyện ngắn và truyện vừa của
Chekhov thể hiện ở cách tổ chức các tín hiệu này trong những mối quan hệ đặc
thù cho văn phong Chekhov.
Sự lặp lại một số thành tố rời
rạc, đứt quãng trên bề mặt văn bản cần thiết để liên kết các tín hiệu của mạch
ngầm văn bản. Với chức năng liên kết này sự lặp lại không chỉ có ý nghĩa nhấn
mạnh, mà còn mang ý nghĩa mở rộng trường liên tưởng, đối chiếu các biểu hiện
khác nhau của cùng một hiện tượng, làm nổi bật các sắc thái mới trong mối liên
hệ với chỉnh thể.
Chekhov là nhà văn hết sức
cảnh giác khi sử dụng thủ pháp lặp lại trong tác phẩm của mình. Trong thư gửi
D.Grigorovich, nhà văn nhận xét: “Cảm giác về cái lạnh phần nào cùn nhụt đi
trong ấn tượng của độc giả và trở thành nhàm bởi sự lặp lại thường xuyên từ
“lạnh”(XIII,281). Quan niệm này rất
khác với một số nhà văn như Balzac, Dostoevsky. Để nhấn mạnh ấn tượng nào đó,
các nhà văn này thường sử dụng trùng điệp các từ ngữ với cùng một trường ngữ
nghĩa tập trung trong cùng một lát cắt của văn bản. Chekhov trong văn chương là
người kín đáo, biết kiềm chế, giản dị, ưa gợi hơn đặc tả, bởi thế ông không
chấp nhận thủ pháp lặp lại tập trung lộ liễu như vậy. Đối với Chekhov nhấn mạnh
một cách quá mức tức là đã để lộ cái chủ quan của mình một cách trực tiếp. Nói
như vậy không có nghĩa là Chekhov chối bỏ cái tôi của mình và không sử dụng thủ
pháp lặp lại. Vấn đề chỉ là ở chỗ nhà văn thể hiện điều đó như thế nào.
Mạch ngầm văn bản xuất hiện
trong văn xuôi Chekhov chủ yếu là sau năm 1885, tức là gần như đồng thời với sự
phát triển của khuynh hướng trần thuật khách quan định hướng chủ yếu vào cảm
nhận của nhân vật dù câu chuyện có được kể từ ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba[11].
Tuy nhiên, mạch ngầm văn bản thực chất lại là nơi gặp gỡ của cái khách quan và
cái chủ quan, của “cuộc sống tự nó nói lên” và thái độ của tác giả (đồng thời
của người đọc giả định) đối với nó. Sự xuất hiện đồng thời của mạch ngầm văn
bản với trần thuật khách quan chứng tỏ Chekhov không từ bỏ chủ quan tính mà chỉ
khéo léo giấu nó đi, không để lộ ra một cách trực tiếp. Điều này giải thích tại
sao khi đi theo khuynh hướng trần thuật khách quan vào những năm 1886- 1894
Chekhov không tìm đến với hình thức “lời kể miệng”(сказ) vốn đặc biệt nhấn mạnh nhân
vật tính như trong văn xuôi của Lescov, mà chỉ tăng cường phát triển hình thức
lời nửa trực tiếp, loại lời nói mà trong đó “thường xuyên diễn ra sự chuyển đổi
từ tầng lớp ý thức tác giả sang tầng lớp ý thức nhân vật và ngược lại”[12].
Đây là một sự phát triển có tính qui luật và thống nhất trong sáng tác văn xuôi
của Chekhov cho đến cả giai đoạn từ sau năm 1994, giai đoạn mà, theo
A.Chudacov, chủ quan tính được tăng cường trong trần thuật, nhưng vẫn không
loại trừ tính khách quan thể hiện bằng sự lấn át của dạng lời nói gián tiếp so
với lời nửa trực tiếp[13].
Lời nói gián tiếp hay nửa trực tiếp trong văn xuôi Chekhov đều là dạng thức lời
nói với hai ý thức song song tồn tại - ý thức tác giả và ý thức nhân vật, -
trong đó ý thức tác giả chỉ ẩn khuất chứ không lấn át ý thức nhân vật. Mạch
ngầm văn bản được khai triển trên cơ sở sự tổng hoà các tín hiệu ở các dạng
thức ngôn từ khác nhau và cả những thành tố ngoài hình thức ngôn từ, nó nằm ở
cấp độ kết cấu chung của tác phẩm chứ không phải chỉ ở cấp độ trần thuật. Tuy
nhiên, theo khuynh hướng phát triển chung với trần thuật, mạch ngầm văn bản
trong văn xuôi Chekhov lấy ý thức, cảm nhận của nhân vật làm chủ đạo, ý thức và
cảm nhận của tác giả không mất đi mà lẩn khuất đằng sau nó, đánh giá nó thế nào
để độc giả có thể cảm nhận được mà không cảm thấy bị áp đặt.
Đối tượng miêu tả chủ yếu
trong sáng tác của Chekhov chính là cuộc sống với đầy dẫy những sự lặp lại quẩn
quanh, nhàm chán, đời thường. Tận dụng điều này, Chekhov đã khéo léo bố trí sự
lặp lại các thành tố liên kết các tín hiệu của mạch ngầm văn bản ẩn sau sự lặp
lại dường như “tình cờ”, “tự nhiên” của cuộc sống ấy. Các mắt xích xâu chuỗi
các tín hiệu của mạch ngầm văn bản với một số lượng tối thiểu chỉ vừa đủ để gợi
liên tưởng chứ không trùng điệp như một sự nhấn mạnh cố ý được Chekhov sắp đặt
ở các quãng cách xa nhau tương ứng với mạch vận động của cốt truyện. Các tín
hiệu thường không quá nổi bật lên trên bề mặt văn bản, bởi chúng, trừ một số
trường hợp đặc biệt hãn hữu, còn lại đều mang tính chất hết sức đời thường, tự
chúng không có ý nghĩa biểu tượng, ý nghĩa ấy chỉ được thiết lập khi chúng được
liên kết lại trước hết trong mạch tâm trạng của nhân vật, sau đó mới kết hợp
với ý thức của tác giả và qua đó tác động đến người đọc.
Trong văn xuôi Chekhov có
những lời nói được lặp đi lặp lại
tình cờ vô ý thức, đôi lúc vô nghĩa như vẫn có trong cuộc sống đời thường. Thế
nhưng, trong hệ thống nghệ thuật của nhà văn, chúng lại có thể là những “tín
hiệu” hướng độc giả tới mạch tâm trạng và cảm nhận ở chiều sâu vô thức hay ý
thức mong manh đang dần sống dậy của nhân vật bị vùi lấp dưới cuộc sống đời
thường ấy.
Trong truyện “Thầy giáo dạy
văn”(1894), câu nói “Thật là thô bỉ!”
vốn là câu “cửa miệng” rất vô nghĩa của ông già Shelestov được nhắc đi nhắc lại
ba lần trong văn bản. Lần đầu tiên nó được nói đến như một hiện tượng “thường
lệ” trong gia đình Shelestov và láy lại trong tâm trạng anh thầy giáo đang yêu
Nikitin chỉ như một vết gợn nhỏ: “- Thật là thô
bỉ!- Ông [Shelestov] nói.- Thô bỉ
chứ còn gì nữa! Đúng thế, thô bỉ
thật!” Từ ngày Nikitin mê Manhiusia thì cái gì ở nhà Shelestov anh cũng
thích... thậm chí cả từ “thô bỉ” mà ông
già thường hay nói”. Người kể chuyện lưu ý độc giả chú ý đến vết gợn này
bằng từ “thậm chí”. Lần thứ hai câu nói của ông già Shelestov được nhắc lại như
một tiếng vọng “từ đầu bàn phía bên kia” tình cờ xen vào cuộc tranh luận giữa
cô chị Varia, Nikitin và một số vị khách về Pushkin: “Đó là chuyện thô bỉ! Tôi đã nói như thế với
ngài tổng đốc: Bẩm quan lớn, đó là chuyện
thô bỉ!”. Cuộc tranh luận về Pushkin lúc đó rất sôi động, nhưng thực tế lại
hết sức vô nghĩa vì những người tham gia chủ yếu chỉ muốn chứng tỏ mình là
người hiểu biết, chứ không thực sự quan tâm đến Pushkin, bởi vậy câu nói vọng
vào tưởng như không ăn nhập gì của ông già Shelestov lại tác động mạnh đến
Nikitin làm anh ngay lập tức kết thúc cuộc tranh cãi trong tâm trạng bực dọc.
Được đặt vào một ngữ cảnh mới, câu nói dường như liên kết, đối sánh đoạn văn
trước với đoạn văn này để thấy mạch tâm trạng của Nikitin chuyển từ một vết gợn
thành cả một nỗi bực dọc mơ hồ. Và trong ngữ cảnh “ông nói gà bà nói vịt” vốn
rất đặc trưng cho Chekhov[14]
này, câu nói không ăn nhập gì xen vào cuộc đối thoại lại chỉ ra bản chất của
cuộc đối thoại đó. Ý nghĩa chính thức ngoài ngữ cảnh của từ “thô bỉ” vốn bị
tính chất “cửa miệng” trong câu nói thường xuyên của ông già làm mờ nhoà đi,
nay được thiết lập lại trong ý thức của người đọc. Trên bề mặt văn bản, câu nói
thể hiện thói quen chỉ trích của ông già Shelestov; ở dưới mạch ngầm văn bản,
nó như lời tự bộc bạch toát ra chính từ bên trong cả cuộc sống “thô bỉ” đang
bủa vây Nikitin. Tuy nhiên, trong lần thứ hai này câu nói mới chỉ gợi lên trong
cảm nhận của Nikitin một tâm trạng bực dọc mơ hồ chưa được ý thức hết. Lần thứ
ba câu nói với từ “thô bỉ” được nhắc lại là ở gần cuối truyện ngắn sau khi
Nikitin đã trải qua những phút giây đỉnh điểm của hạnh phúc nhỏ hẹp và cũng là
của sự tha hoá, sau cái chết của thầy giáo Ippolit, người “chỉ nói những điều
mà mọi người đã biết từ lâu”, sau sự hiển hiện lần thứ tư day dứt trong tâm trí
Nikitin câu hỏi vốn chỉ là để tỏ ra là người hiểu biết của Shelbaldin: “Anh đã
đọc “Kịch Hamburgh” của Lessing chưa?”[15].
Lúc này Nikitin đã “cảm thấy một sự giận dữ nặng nề”, “anh đoán là ảo ảnh đã
tiêu tan; một cuộc sống mới căng thẳng, có ý thức đã bắt đầu và nó không thể
nào phù hợp với sự yên tĩnh và hạnh phúc cá nhân được”. Khi nghe bố vợ nói câu
quen thuộc: “Thật là thô bỉ! Tôi nói
thẳng với ông ta như thế: điều đó thật
thô bỉ, thưa ngài”, Nikitin, dường như theo thói quen vẫn “cười hài lòng”,
nhưng “sau bữa ăn về phòng mình và chốt cửa lại”, anh ghi vào nhật ký:
“...Không có gì đáng sợ hơn, đê nhục hơn, buồn chán hơn cái tầm thường. Phải
trốn khỏi nơi đây, trốn ngay hôm nay nếu không mình sẽ điên lên mất!”. Câu nói
“cửa miệng” của ông già Shelestov trở thành “tín hiệu” chỉ ra mạch ngầm phát
triển tâm trạng của Nikitin từ một vết gợn trong tâm thức, từ nỗi bực dọc mơ hồ
trở thành ý thức và quyết tâm thay đổi cuộc sống.
Những câu nói theo thói quen,
nhàm chán, vô nghĩa lý của đời thường phản ánh vào tác phẩm của Chekhov vừa như
nhấn mạnh sự nhàm chán đó, vừa như tạo ấn tượng thôi thúc phải thay đổi sự nhàm
chán đó. Lời nói được lặp lại càng vô nghĩa, sự thôi thúc càng lớn tạo nên một
mạch tâm trạng bức bối. Ta có thể thấy rõ điều đó qua ấn tượng về câu nói cửa
miệng “Tara...ra...bumbia!” của
“Volodia bé” trong “Volodia lớn và Volodia bé”(1893), hay câu “Ru-ru-ru-ru” của ông bác sỹ trong “Ba
năm”(1895)...
Tương tự như vậy, tín hiệu của mạch
ngầm văn bản trong văn xuôi Chekhov có thể là những âm thanh, tiếng động được lặp lại và gợi liên tưởng kết nối. Đó có
thể là những tiếng động vô nghĩa, hay bị xoá nhoà ý nghĩa: tiếng chó sủa “Gừ,
gừ...gâu, gâu, gâu...” hoà với tiếng ồn của âm nhạc trong nhà, ngoài phố, trong
đám cưới được lặp lại ở phần I và phần II truyện “Thầy giáo dạy văn” góp phần
thôi thúc mạch phát triển tâm trạng của Nikitin và cả ấn tượng của độc giả về
một cuộc sống nhàm chán, bức bối, cần phải thay đổi.
Cũng có lúc tín hiệu của mạch ngầm văn bản là tiếng nhạc có một nội dung nhất định gợi đến một thế giới khát vọng. Trong truyện “Tu sĩ vận đồ đen”(1894) ám ảnh về vị “tu sĩ vận đồ đen” huyền thoại xuất hiện lần đầu tiên trong tâm trí Kovrin ở chương II và lần cuối cùng ở chương IX đều được gợi nên từ tiếng nhạc chơi bản “Angel’s serenade” của G.Braga. Chính tiếng nhạc vọng vào tâm trí của Kovrin ấy đã góp phần đem lại cho câu chuyện về căn bệnh “vĩ cuồng” một chất thơ kỳ lạ của khát vọng đạt tới “sự hài hoà thiêng liêng, một sự hài hoà không thể nào hiểu được đối với những người hữu hạn”. Tuy nhiên, tiếng nhạc có ý nghĩa quan trọng như vậy trong ngữ cảnh của tác phẩm lại là sản phẩm tình cờ của những nhạc công và ca sĩ nghiệp dư đời thường hay là tiếng vọng từ cuộc sống sinh hoạt không rõ xuất xứ: lần đầu đó là tiếng nhạc trong một buổi tập thường lệ, “hầu như ngày nào cũng thế”, của Tanhia với các cô gái láng giềng và với anh thanh niên đang tán tỉnh cô; lần thứ hai đó là tiếng nhạc vọng lên từ tầng dưới ban công khách sạn mà Kovrin nghỉ lại ở dọc đường đi nghỉ mát. Tương tự như vậy, có thể nói về bài hát “Luchinusca” từ “dàn đồng ca ở vườn nhà bên” vọng vào cảnh đọc tiểu thuyết và “đem tới những điều không có trong tiểu thuyết nhưng lại có trong cuộc đời” trong truyện “Ionych”(1898); cũng có thể nói như vậy về bản nhạc tuyệt mệnh của ông già đóng quan tài Iacov với cách thể hiện “bao giờ cũng não nuột” của anh nhạc công do thái Rodshild trong “Cây vĩ cầm của Rodshild”(1894). Ý nghĩa quan trọng của tiếng nhạc dường như ẩn khuất đằng sau cái đời thường, không thoát hẳn ra khỏi cái đời thường, chỉ như một sự tình cờ của cuộc sống chứ không được nhấn mạnh một cách trang trọng như “phút giây xuất thần của người nghệ sĩ” như trong những trường hợp tương tự ở các nhà văn khác, chẳng hạn như tiếng nhạc “thể hiện bản chất của lịch sử” trong “Luserne” của L.Tolstoy.
Cũng có lúc tín hiệu của mạch ngầm văn bản là tiếng nhạc có một nội dung nhất định gợi đến một thế giới khát vọng. Trong truyện “Tu sĩ vận đồ đen”(1894) ám ảnh về vị “tu sĩ vận đồ đen” huyền thoại xuất hiện lần đầu tiên trong tâm trí Kovrin ở chương II và lần cuối cùng ở chương IX đều được gợi nên từ tiếng nhạc chơi bản “Angel’s serenade” của G.Braga. Chính tiếng nhạc vọng vào tâm trí của Kovrin ấy đã góp phần đem lại cho câu chuyện về căn bệnh “vĩ cuồng” một chất thơ kỳ lạ của khát vọng đạt tới “sự hài hoà thiêng liêng, một sự hài hoà không thể nào hiểu được đối với những người hữu hạn”. Tuy nhiên, tiếng nhạc có ý nghĩa quan trọng như vậy trong ngữ cảnh của tác phẩm lại là sản phẩm tình cờ của những nhạc công và ca sĩ nghiệp dư đời thường hay là tiếng vọng từ cuộc sống sinh hoạt không rõ xuất xứ: lần đầu đó là tiếng nhạc trong một buổi tập thường lệ, “hầu như ngày nào cũng thế”, của Tanhia với các cô gái láng giềng và với anh thanh niên đang tán tỉnh cô; lần thứ hai đó là tiếng nhạc vọng lên từ tầng dưới ban công khách sạn mà Kovrin nghỉ lại ở dọc đường đi nghỉ mát. Tương tự như vậy, có thể nói về bài hát “Luchinusca” từ “dàn đồng ca ở vườn nhà bên” vọng vào cảnh đọc tiểu thuyết và “đem tới những điều không có trong tiểu thuyết nhưng lại có trong cuộc đời” trong truyện “Ionych”(1898); cũng có thể nói như vậy về bản nhạc tuyệt mệnh của ông già đóng quan tài Iacov với cách thể hiện “bao giờ cũng não nuột” của anh nhạc công do thái Rodshild trong “Cây vĩ cầm của Rodshild”(1894). Ý nghĩa quan trọng của tiếng nhạc dường như ẩn khuất đằng sau cái đời thường, không thoát hẳn ra khỏi cái đời thường, chỉ như một sự tình cờ của cuộc sống chứ không được nhấn mạnh một cách trang trọng như “phút giây xuất thần của người nghệ sĩ” như trong những trường hợp tương tự ở các nhà văn khác, chẳng hạn như tiếng nhạc “thể hiện bản chất của lịch sử” trong “Luserne” của L.Tolstoy.
Những thành tố được lặp lại
trong văn xuôi Chekhov để tạo mạch ngầm văn bản có thể không phải chỉ là những
lời nói, âm thanh, mà là những chi tiết về đồ
vật, sự vật đời thường, tưởng như chỉ lặp lại tình cờ trong cuộc sống.
Trong hệ thống nghệ thuật của Chekhov những chi tiết này có sức gợi rất lớn.
Chi tiết về chiếc ô “không còn mới, được quấn chẳng chịt bởi
những sợi dây chun đã cũ, tay cầm làm bằng xương trắng thông thường, rẻ tiền”
trong truyện vừa “Ba năm” được lặp lại 5 lần ở các thời điểm khác nhau của mạch
cốt truyện, nó kết nối các thời điểm này lại và chỉ ra mạch ngầm trớ trêu ẩn
dưới câu chuyện về tình yêu và hôn nhân trong khoảng thời gian ba năm này. Ở
đầu tác phẩm, nhân vật chính Laptev đem trả lại chiếc ô cũ mà cô gái Iulia tình
cờ bỏ quên ở chỗ người chị của anh. Vì Laptev đang yêu Iulia, nên anh “ngồi suốt đêm dưới chiếc ô và cảm thấy lâng
lâng”, chiếc ô cũ ấy đối với anh trở nên “kỳ diệu” và nó “mang hương vị của hạnh phúc” (lớp nghĩa
mới của chiếc ô được thiết lập bởi tâm trạng nhân vật). Chàng trai xin cô gái
chiếc ô để giữ làm kỷ niệm. Cô gái trả lời: “Anh cứ lấy đi, nhưng nó chẳng có gì là kỳ diệu cả”. Câu nói
tình cờ trả lại cho chiếc ô ý nghĩa thông thường, vật chất của nó, đồng thời
chỉ ra cả sự thờ ơ của cô đối với anh. Nhưng rồi cô gái vẫn nhận lời lấy Laptev
làm chồng, “không phải vì tình yêu”, mà vì muốn “thay đổi cuộc sống đơn điệu” ở
tỉnh lẻ. Họ lấy nhau được ba năm, trong suốt thời gian đó chiếc ô không được
nhớ tới, nó bị lãng quên trong tủ đựng “những
thứ đồ không cần thiết” của Laptev. Chỉ cho đến khi Laptev hiểu ra rằng
trong ba năm ấy mình “chưa từng có hạnh phúc”, anh mới lại tình cờ nhớ đến
chiếc ô. Laptev nhắc lại chuyện chiếc ô với vợ như một hoài niệm đã qua, anh
lấy chiếc ô ra, đưa cho vợ. Lúc tình yêu và cảm giác hạnh phúc đối với Laptev
chỉ còn là hoài niệm cũng là lúc tình yêu của người vợ đối với anh bắt đầu nhen
nhúm một cách trớ trêu. Iulia nói với chồng: “...Anh về sớm nhé. Không có anh
em rất buồn.” Và “sau đó cô ngắm nhìn
chiếc ô thật lâu”. Ở các thời điểm khác nhau, chiếc ô đối với ai đó là hình
ảnh của khát vọng hạnh phúc, nhưng luôn luôn đối với ai đó khác lại chỉ là một
đồ vật của thế giới sinh hoạt đời thường, thậm chí tầm thường. Chiếc ô tầm
thường trở thành “tín hiệu” của khát vọng hạnh phúc ở trong tầm tay mà không
sao đạt tới được. Sự trớ trêu đó được khai triển ở dưới mạch ngầm văn bản của
tác phẩm.
Những chi tiết về đồ vật, sự
vật như tín hiệu của mạch ngầm văn bản như vậy có rất nhiều trong các truyện
ngắn và truyện vừa của Chekhov: những quả phúc bồn tử trong truyện ngắn “Khóm
phúc bồn tử”(1898), đôi dép đi trong nhà “của người khác” trong “Ở chỗ người
quen”(1898), chiếc nhẫn trong “Cuộc đời tôi”(1896), ấm samovar trong “Trong khe
núi”(1900)...
Những hiện tượng trong thế giới sinh hoạt cũng có thể được lặp lại và trở
thành tín hiệu của mạch ngầm văn bản. Cảnh đọc tiểu thuyết, chơi đàn, diễn trò
trong phòng khách nhà Turkin được lặp lại với tất cả các chi tiết ở chương I và
IV truyện “Ionych” chỉ ra sự quẩn quanh bất biến của cuộc sống và, đồng thời, khi
được kết hợp với cảnh tỏ tình không thành với sự tráo đổi vai trò giữa Startsev
với Kotic được lặp lại ở chương II và IV, nó còn chỉ ra biến đổi tâm trạng theo
hướng tha hoá của Startsev trong quá trình trở thành Ionych.
Tín hiệu lặp lại của mạch ngầm văn
bản trong văn xuôi Chekhov có lúc lại có thể là những hình ảnh, cảnh vật hay hiện tượng thiên nhiên: ráng chiều trong “Tu sĩ vận đồ đen”, ánh trăng trong “Trong khe núi”, bão tuyết trong “Dọc đường”(1886), “Một
chuyến công vụ”(1899), cơn dông trong
“Thảo nguyên”(1888), biển trong
“Gusev”(1890)... Hình ảnh “ráng chiều rực đỏ” bên bờ sông với “những hàng thông
cau có”, với cánh đồng lúa mạch được lặp lại ở chương II và chương VIII của “Tu
sĩ vận đồ đen” đối sánh tâm trạng hứng khởi của Kovrin khi gặp ảo ảnh và nuối
tiếc khi tìm kiếm ảo ảnh mà không thấy nữa ở cùng một địa điểm. Hình ảnh thiên
nhiên ấy không chỉ là nhân chứng cho cuộc gặp gỡ kỳ lạ với ảo ảnh, nó còn chỉ
ra sự bền vững cốt lõi của bản thể vật chất so với sự mong manh của ảo ảnh tinh
thần.
Cảnh vật trong văn xuôi
Chekhov mang đậm tính ấn tượng. Những cảnh vật khác nhau có thể gợi liên tưởng
liên kết với nhau nhờ ấn tượng chung
mà chúng tạo nên và chúng trở thành tín hiệu của mạch ngầm văn bản.
Trong “Ngôi nhà có căn gác
nhỏ”(1896) những cảnh vật gợi nên cùng một ấn tượng về sự tương phản ánh sáng
và bóng tối được lặp lại như leitmotiv của truyện ngắn. Ở đầu truyện ngắn đó là
ánh chớp trong đêm dông tố “đồng thời
loé lên từ mười khung cửa sổ lớn” của căn phòng nơi ở của người hoạ sĩ; đó là
cảnh “mặt trời khuất bóng và bóng chiều trải dài trên cánh đồng lúa
mì đang trổ bông”, cảnh “trời lặng tối
và đâu đó trên cao ánh vàng rực rung rinh
toả màu ngũ sắc lên đám mạng nhện”, cảnh cây thánh giá trên tháp chuông “cháy lên ánh phản chiếu của mặt trời đang
lặn xuống” khi người hoạ sĩ lần đầu
tình cờ lần đến ngôi nhà có căn gác nhỏ. Sau đó hình ảnh tương phản ánh sáng và
bóng tối phản ánh cả vào lời tranh luận của người hoạ sĩ với Liđa: “Ánh đèn từ cửa sổ của chị không toả
sáng được cả khu vườn”. Cuộc chia tay lần cuối của người họa sĩ với Misus
cũng diễn ra trong khung cảnh “trên mặt
hồ thấp thoáng ánh phản chiếu mờ nhạt của những vì sao”, “từ sau một ráng
mây đỏ rực, mặt trăng đang lên thấp thoáng chiếu sáng con đường và đồng
lúa mì sẫm tối ven đường”. Chia tay
rồi, chàng họa sĩ còn lặng ngắm “ánh đèn
sáng hắt ra từ những ô cửa sổ căn gác nơi Misus ở, sau đó chuyển sang màu xanh êm ả - có ai đã
chụp chiếc chao đèn. Những bóng người
dịch chuyển...” Cuộc tình kết thúc một cách bất ngờ và lửng lơ sống lại trong
hoài niệm của người họa sĩ ở những dòng cuối của tác phẩm cũng với “ánh đèn xanh nơi cửa sổ” ấy. Những hình
ảnh tương phản sáng - tối dường như tình cờ, rải rác trên bề mặt văn bản thực
chất lại kết nối cả hai mạch cốt truyện tư tưởng và tình yêu trong truyện ngắn
lại và gợi suy tưởng về cuộc vật lộn ngấm ngầm giữa khát vọng hành động thực sự
với sự bất động tù đọng hay những hành động nhỏ hẹp quẩn quanh, giữa khát vọng
tự do và sự độc đoán, hạnh phúc và bất hạnh, tình yêu và nỗi sợ của những con
người ở thời khắc chuyển giao giữa hai thế giới mới và cũ.
Có thể thấy, những cảnh vật
khác nhau được nhắc đến ở trên phần lớn gợi liên tưởng kết nối với nhau chỉ
bằng sự lặp lại ấn tượng chứ không phải ngôn từ. Trong những trường hợp ý nghĩa
đối sánh hay liên kết của các lát cắt văn bản tự nó đã rõ, Chekhov có thể lược bỏ sự lặp lại của các tín hiệu ngôn từ,
bởi những thành tố thuần tuý ngữ cảm (tín
hiệu ấn tượng), hoặc ngữ nghĩa (tín
hiệu ý) được lặp lại trong các đoạn văn đó đã có thể được xâu chuỗi một
cách “tự nhiên” trong ý thức người đọc.
Những tín hiệu ấn tượng được kết nối với nhau có thể tạo nên cả một
trường ngữ cảm. Tính ấn tượng trong sáng tác của Chekhov có mối liên hệ sâu sắc
với tính ấn tượng của một số loại hình nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc.
Hình ảnh, màu sắc, độ sáng - tối trong “Ngôi nhà có căn gác nhỏ” nói trên và
nhiều truyện ngắn khác của Chekhov làm ta liên tưởng đến bút pháp hội họa, đặc biệt là hội họa ấn tượng, dù Chekhov không
hoàn toàn thuộc về trường phái nghệ thuật này[16].
Đồng thời với những biểu tượng âm nhạc trong tác phẩm, cách tổ chức các giọng
điệu với những chủ âm, bè đệm, biến tấu, kết cấu 3 phần đối xứng, nhịp điệu câu
văn chỉ ra nhạc tính trong nhiều
truyện ngắn của Chekhov. Nhà soạn nhạc D.Shostakovich nhận định: “Nhiều tác
phẩm của Chekhov đặc biệt mang nhạc tính bởi kết cấu của chúng... Tôi cho rằng
truyện “Tu sĩ vận đồ đen” được xây dựng bằng hình thức sonata”[17].
Tính hội họa và nhạc tính làm phong phú cho văn xuôi Chekhov bằng những ấn
tượng ngữ cảm đặc biệt. Đó cũng chính là công cụ đắc lực để tạo dựng mạch ngầm
văn bản.
Đối với những tín hiệu thuần
tuý ngữ nghĩa cũng tương tự như vậy. Hình ảnh “bức rào sắt xám xịt”, “bức
rào đáng nguyền rủa” xuất hiện trong chương III truyện “Người đàn bà có con
chó nhỏ” (1899) có thể được liên tưởng ngược lại với hình ảnh Gurov điềm nhiên
“chậm rãi ăn dưa hấu” khi Anna Sergeyevna vừa khóc vừa bộc bạch tâm sự lần đầu
tiên với anh ở chương II. Mạch ngầm văn bản được thiết lập bởi những tín hiệu ý đối sánh hai chi tiết như một
sự trớ trêu, đồng thời chỉ ra vận động tâm trạng của nhân vật từ rào cản tình
cảm tự bên trong chính mình đến những rào cản bên ngoài của ngoại cảnh.
Mạch ngầm văn bản được thiết
lập bằng tín hiệu thuần tuý ngữ cảm, hoặc ngữ nghĩa rất phổ biến trong văn xuôi
Chekhov bởi nó có thể tổng hoà các chi tiết gần nhau về trường ngữ nghĩa, ngữ
cảm trong văn bản để tạo nên một âm điệu chung mà không gây ấn tượng lặp lại.
Hơn nữa, nó phù hợp với khuynh hướng kết cấu những “novella – đối sánh” trong thế lấn át những “novella - sự kiện”
trong sáng tác của Chekhov, như N.Bercovsky từng nhận định: “Trải ra trên toàn
bộ sáng tác của Chekhov là những novella - đối sánh, không có sự thống nhất sự
kiện, nhưng lại có sự thống nhất ý tưởng. Không ít khi sự phong phú của các mối
quan hệ bên trong trên nền giản thiểu và tình cờ của các mối quan hệ bên ngoài
đem lại cho chúng một sự căng thẳng đặc biệt”[18].
Với loại novella như vậy, mạch ngầm văn bản được tạo dựng bằng những tín hiệu
ấn tượng, tín hiệu ý là vô cùng quan trọng.
Như vậy, mạch ngầm văn bản
trong truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov được tạo dựng một cách hết sức kín
đáo không những chỉ bởi sự lặp lại một cách giản thiểu của các tín hiệu ngôn từ
được “tình cờ hoá”, “đời thường hoá” phản ánh trước hết vào tâm trạng nhân vật,
mà còn bằng cả những tín hiệu thuần tuý ngữ cảm, ngữ nghĩa “toát lên” từ sự đối sánh các lát cắt khác nhau trong chỉnh thể
tác phẩm; những tín hiệu lặp lại của mạch ngầm không nổi hẳn lên trên bề mặt văn bản mà chỉ ẩn hiện thấp thoáng
sau những con chữ. Mạch ngầm văn bản với những tín hiệu “ẩn khuất” như vậy tạo
một hiệu quả gián cách động: người
đọc có lúc nhập vào vị thế của nhân vật để cảm nhận chi tiết, có lúc lại phải
lùi ra xa để suy ngẫm và cảm nhận tổng thể. Điều này có liên quan tới bản chất
của mạch ngầm văn bản trong văn xuôi Chekhov - mạch ngầm tổng hoà trong đó cả
chất tự sự lẫn chất trữ tình.
* * *
Trong thư gửi E.Shavrova năm
1891, Chekhov từng nhận định: “Kẻ nào vĩnh viễn chìm ngập trong văn xuôi, kẻ ấy
buồn nhớ thi ca đến nao lòng”(XV,242).
Các nhà nghiên cứu từ lâu đã khẳng định chất trữ tình thấm đượm trong các
truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov. Nhà nghiên cứu V.Lakshin nhân đó còn
khẳng định rằng “giọng điệu tự sự/sử thi đối với ông [Chekhov] hoàn toàn xa lạ”[19].
Trên thực tế khảo sát văn bản của Chekhov, chúng ta thấy không hoàn toàn như
vậy. N.Bercovsky có một nhận định xác đáng về vấn đề này: “Với tất cả tính trữ
tình của Chekhov vẫn tồn tại một khoảng cách nào đó có ý nghĩa triết lý giữa
chúng ta và bức tranh sự vật sống động trong các truyện ngắn của ông”[20].
Nhận định này gần với nhận định của T.Mann nói về “âm hưởng sử thi quyến rũ”[21]
trong các truyện ngắn của Chekhov. Vấn đề ở đây không phải là trong các truyện
ngắn của Chekhov không có giọng điệu tự sự/sử thi, mà ở chỗ giọng điệu tự sự/sử
thi hoà quyện với giọng điệu trữ tình làm nên nét đặc sắc cho các truyện ngắn
và truyện vừa của ông.
Tính trữ tình thể hiện sự đồng
cảm của Chekhov đối với thế giới nghệ thuật mà ông miêu tả không triệt tiêu hàm
ý “mỉa mai nội tại, hay mỉa mai khách quan”[22]
toát lên từ toàn bộ chỉnh thể tác phẩm tạo khoảng cách tự sự/sử thi giữa ông và
cả độc giả với thế giới ấy. Nhà nghiên cứu I.Gurvich gọi đó là “giọng điệu trữ
tình - mỉa mai nước đôi”[23].
Mạch ngầm văn bản trong văn xuôi Chekhov thấm đượm chất “trữ tình - mỉa mai
nước đôi” ấy bởi nó tạo được một hiệu quả gián cách động như đã nói ở phần trên
của bài viết. Chekhov lúc thì tiến đến gần, rất gần nhân vật, lúc lại lùi xa
ra, tách mình ra khỏi nhân vật để lặng yên suy tưởng về những nỗi trớ trêu, có
thể là rất đáng tiếc của cuộc đời nhân vật và của cả cuộc sống mà ông đang
sống; sự luân chuyển giữa hai động thái ấy khó nhận thấy đến mức có thể gây ấn
tượng dường như hai động thái ấy diễn ra đồng thời.
Mạch ngầm tự sự và mạch ngầm
trữ tình trong văn xuôi Chekhov hoà quyện vào nhau trong một dòng chảy chung
còn bởi ý nghĩa nội tại của nó. Mạch ngầm tự sự trong truyện ngắn và truyện vừa
của Chekhov thường chỉ ra bi kịch của sự xa lạ giữa người với người, “bi kịch
của cái đời thường”(M.Gorky) với tất cả sự quẩn quanh, bế tắc, nhỏ hẹp của nó,
đó là sự trớ trêu của cuộc sống của những con người không được làm người thật
sự. Còn mạch ngầm trữ tình thường là niềm khát khao giao cảm giữa người với
người, khát vọng thay đổi cuộc sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới tinh thần tự
do và phóng khoáng, để con người thực sự người hơn. Với nội dung ấy mạch ngầm
tự sự và trữ tình trong văn xuôi Chekhov đã là hai mặt không thể tách rời: cuộc
sống càng bức bối, khát vọng thay đổi càng lớn. Ta có thể thấy điều đó ở hầu
hết các truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov.
Truyện ngắn “Một chuyện đùa
nhỏ” [24]
của Chekhov vẫn thường được coi là một truyện ngắn trữ tình (A.I.Bogdanovich).
Trên bề mặt văn bản, đó là một chuyện đùa tưởng như vô thưởng vô phạt, một trò
chơi ú tim tình yêu của một chàng trai với một cô gái. Truyện ngắn được kể từ ngôi thứ nhất, từ lời
của chàng trai. Nhưng khác với bản in trên tạp chí, trong bản sửa lại năm 1899,
chàng trai ở vị thế của một người “bây giờ đã đứng tuổi” kể lại câu chuyện xảy
ra đã lâu từ thời trẻ. Điều này tạo khoảng cách giữa người kể chuyện với câu
chuyện được kể. Tuy nhiên, câu chuyện được kể lại thuộc loại hoài niệm day dứt
có thể làm sống lại cảm giác trực tiếp trong quá trình kể, bởi vậy khoảng cách
có thể bị rút ngắn tuỳ vào cảm xúc và nhận thức của người kể. Sự luân chuyển
giữa hai điểm nhìn “lúc đó” và “bây giờ” được thực hiện ở dưới mạch ngầm văn
bản tạo một hiệu quả gián cách động.
Ở đầu truyện ngắn chàng trai
thuyết phục cô gái cùng anh trượt tuyết. Đối với anh thanh niên đó là một trò chơi, nhưng cũng đồng thời là một sự kiện đi trệch ra khỏi quĩ đạo đời thường.
Đối với cô gái, đó còn là một hành động
đối mặt với hiểm nguy, với nỗi sợ. Niềm an ủi duy nhất và cũng là điểm gặp
gỡ trong cảm nhận của hai người là họ được cùng
nhau ngồi vào xe trượt.
Trong lần trượt tuyết thứ
nhất, chàng trai có sự giao cảm với cô gái, bởi vậy họ như cùng chung một cảm
giác khi trượt xuống: “Chiếc xe lao đi vun vút như một viên đạn. Làn không khí
bị xé ra, quật vào mặt, gào rít bên tai, dữ tợn đâm vào da buốt nhói, gió như
muốn giật phăng đầu ra khỏi vai. Gió ép mạnh đến ngạt thở. Mọi vật chung quanh
nhập lại thành một vệt dài vun vút lao về phía sau... Chỉ một giây lát nữa thôi
có lẽ chúng tôi chết mất!” Và lúc đó, có lẽ bất ngờ với cả chính chàng trai,
anh “thì thào nói”: “Nađia, anh yêu em!” Điều khó nói ra trong đời thường đã
được thốt lên trong lúc cùng nhau đối mặt với “hiểm nguy”.
Cho đến lúc này, tác giả cũng
như độc giả có thể hoàn toàn đồng cảm với cả hai nhân vật. Mạch ngầm trữ tình
được thiết lập bởi sự kết hợp cảm nhận của các nhân vật trong ý thức của người
kể chuyện.
Tuy nhiên, khi trở về với đời
thường sau lần trượt đầu tiên, ta có thể nhận thấy giọng kể của người kể chuyện
bắt đầu chuyển sang nước đôi, thể hiện một sự tương phản rõ rệt giữa biểu hiện
tâm trạng của chàng trai và cô gái: “Một lát sau, nàng dần dần hết sợ và bắt
đầu nhìn vào mắt tôi với vẻ dò hỏi: có phải tôi đã nói bốn tiếng ấy, hay chỉ là trong tiếng gió gào rít nàng
nghe thấy như vậy? Còn tôi, tôi đứng bên cạnh nàng, lấy thuốc lá ra hút và chăm chú nhìn chiếc găng tay của mình”.
Cảm nhận của người kể chuyện
về tâm trạng của cô gái cũng có những sự mâu thuẫn: “Có những lời đó không? Có
hay không? Đó là một câu hỏi của lòng tự
trọng, của danh dự, của cuộc đời và niềm hạnh phúc - một câu hỏi rất hệ trọng,
hệ trọng nhất trên đời này. Nađia đăm đăm nhìn tôi bằng cặp mắt buồn rầu
nôn nóng bồn chồn, trả lời đứt quãng, chờ xem tôi có nói ra không. Ôi, trò gì, trò gì diễn ra trên khuôn mặt
đáng yêu ấy[25]!..”
Câu cuối là câu Chekhov bổ sung vào khi sửa lại truyện ngắn (trong bản in trên
tạp chí không có câu này). Ý nghĩa đùa nghịch của nó tương phản rõ rệt với sự
nghiêm túc của câu trên.
Mạch ngầm trữ tình vẫn tiếp
tục được khai triển, nhưng giờ đây nó chủ yếu gắn với tâm trạng băn khoăn, day dứt của người con gái. Hình ảnh gió được lặp lại thể hiện khát vọng của cô, tiếng lòng của cô. Nó
không khách quan, bởi vậy mà cô băn khoăn cần lời khẳng định từ phía chàng
trai. Nhưng vẻ bề ngoài dửng dưng vô tình
hay cố ý của chàng trai, thái độ thích thú với trò chơi ú tim của anh trở thành
rào cản giữa anh và cô, và nó ngầm thể hiện một sự tự mỉa mai chua xót của người kể chuyện đã ở vị thế “bây giờ” mà
nhìn lại. Hai tuyến song song như vậy tiếp tục được triển khai trong hai lần
trượt tiếp theo. Trong lần thứ hai, thái độ của chàng trai đã được định danh:
“Khi chiếc xe dừng lại, Nađia đưa mắt nhìn quanh quả đồi mà chúng tôi vừa trượt
xuống, rồi nhìn đăm đăm vào mặt tôi, lắng nghe giọng nói thờ ơ, lãnh đạm của tôi và toàn thân nàng từ cái mũ, cái mufta và
cả dáng người nàng nữa đều toát lên một vẻ băn
khoăn cực điểm”. Trong lần thứ ba, sự tương phản diễn ra ngay trong lúc
trượt xuống: “Tôi thấy nàng đăm đăm nhìn
lên mặt tôi, theo dõi đôi môi tôi. Nhưng tôi lấy khăn tay che miệng đi, khẽ đằng hắng lên mấy tiếng...”
Rồi việc trượt tuyết trở thành
thông lệ. Thông lệ phần nào làm cùn mòn cảm giác của người kể chuyện: “Từ sau
hôm đó tôi và Nađia ngày nào cũng đi
trượt, và cứ ngồi lên xe trượt xuống lần
nào tôi cũng nói thì thầm vẫn những lời nói ấy”. Trong khi ấy,
thông lệ đem lại cho cô gái một cảm giác say sưa: “Dần dần Nađia quen nghe câu
nói ấy như quen uống rượu, hay dùng
morfin”. Người kể chuyện có khuynh hướng lý giải tất cả bằng thói quen và
cho rằng Nađia đã thôi không băn khoăn nữa: “...Có lẽ, cô cảm thấy uống rượu từ
bình nào cũng thế thôi, chỉ cốt sao say là được”. Tuy nhiên, anh đã nhầm.
Cô gái quyết định đối mặt với
nỗi sợ một mình để truy nguyên đến tận cùng: những lời yêu thương ấy liệu có
phải chỉ là tiếng lòng của cô gửi gắm vào ngọn gió không, hay nó còn là tiếng
lòng của cả chàng trai. Quyết định trượt một mình, song cô gái vẫn “đưa mắt
tìm” chàng trai như một sự ủng hộ, động viên, trong lúc ấy chàng trai cũng “đến
sân trượt một mình”, nhưng “hoà lẫn vào đám đông”, không ra mặt.
Dù sao cô gái
cũng quyết tâm bất chấp nỗi sợ: “Trượt
một mình khủng khiếp biết bao, ôi, thật khủng khiếp! Mặt nàng tái nhợt như
tuyết, run rẩy, nàng bước đi y hệt như đến nơi chịu án tử hình, nhưng nàng vẫn quyết tâm đi, đi, đầu không ngoảnh
lại”. Dĩ nhiên, cố gắng của cô gái không đem lại kết quả. Hành động và ý
nghĩ của hai người đã bị chia làm đôi ngả, việc trượt tuyết không còn ý nghĩa
nữa.
Thế rồi, đến lúc họ phải chia
tay thật sự. Mạch ngầm tự sự liên kết các hiện tượng cách ngăn trớ trêu của vật
chất. Mùa xuân đến, "gió không còn thổi nữa" và chàng trai thì
"sửa soạn đi Peterburg - đi rất lâu, có lẽ là suốt đời". Bây giờ, khi
hai người hoàn toàn trở về với đời thường, không phải chỉ có những rào cản tinh
thần bên trong mà còn cả những rào cản vật chất bên ngoài ngăn cách: "Tôi
ngồi trong khu vườn nhỏ. Một hàng rào cao
có đinh nhọn ngăn cách khu vườn ấy với sân nhà Nađia..." Tuy nhiên,
mạch hoài niệm trữ tình thiết lập lại một lần gặp gỡ cuối cùng cho họ. Bị thôi
thúc bởi tình yêu và tiếc nuối, chàng trai "đến bên hàng rào và ghé nhìn
qua khe hở". Tình yêu thật sự sống dậy trong thoáng chốc khi anh thấy
cô gái "đưa hai tay mình về phía trước như muốn cầu xin làn gió" đem đến
những lời yêu thương. Chàng trai gửi lời yêu thương lần cuối đến cho nàng. Nhưng
ngay sau đó mạch ngầm mai mỉa trớ trêu của số phận (hay của lòng người) lại nổi
lên với hai hành động tương phản:
"...Nađia đưa tay lên đón
lấy gió, trông nàng lúc ấy thật mừng rỡ, đẹp xinh và hạnh phúc.
Còn tôi, tôi trở vào nhà và
thu xếp đồ đạc".
Đoạn kết trở lại với mạch tự
sự khi kể về việc Nađia đã có chồng con, nhưng âm điệu trữ tình lại trào lên
khi nói về kỷ niệm cùng nhau trượt băng được gìn giữ như "kỷ niệm hạnh
phúc nhất, xúc động nhất, đẹp đẽ nhất trong đời" người con gái mang tên Hy
vọng[26].
Và câu nói "Còn tôi, bây giờ tôi đã đứng tuổi, tôi không hiểu nổi vì lẽ gì
tôi đã nói những lời đó, vì sao tôi đã đùa như thế.." trở thành nỗi day
dứt trong lòng người kể chuyện.
Mạch ngầm tự sự trong truyện
ngắn chỉ ra một sự trớ trêu: những lời giao cảm của tình yêu bị biến thành lời
đùa cợt bởi áp lực của đời thường. Mạch ngầm trữ tình là khát vọng vượt qua áp
lực ấy, vượt ra khỏi quỹ đạo của đời thường để tìm đến với nhau, dù chỉ là
trong tâm tưởng.
Mạch ngầm tự sự và trữ tình
hoà quyện với nhau trong truyện ngắn, đồng thời triển khai những tương phản:
nghiêm túc – đùa cợt, giao cảm – xa cách, khát vọng - đời thường. Truyện ngắn
về tình yêu không thành giờ đây còn có thể được hiểu là truyện ngắn về khát
vọng giao cảm của con người.
Không giống như ở bản in trên
tạp chí[27],
bản sửa lại năm 1899 của truyện ngắn không có một kết cục lạc quan. Cần lưu ý
rằng trong văn xuôi Chekhov những tác phẩm kết thúc thật sự lạc quan thường rất
hiếm hoi (Có thể kể đến truyện ngắn “Sinh viên”(1894) và “Vợ chưa cưới”(1903)).
Chekhov là một nhà văn hiện thực, ông chỉ có thể nắm bắt và phản ánh những biến
động tâm trạng đã có trong thực tại lịch sử mà ông đang sống. Cuộc sống bức bối
làm nảy sinh khát vọng thay đổi. Mạch ngầm tự sự chuyển hoá thành trữ tình và
có thể là ngược lại. Ước mơ, khát vọng nhen nhúm rồi có thể bị triệt tiêu, tha
hoá. Tuy nhiên, Chekhov ghi nhận và đồng cảm với những ước mơ khát vọng ấy. Chỉ
riêng với việc đó đã không thể coi ông là người “giết chết những niềm hy vọng”
như L.Shestov từng tuyên bố[28].
* * *
Qua khảo sát mạch ngầm văn bản
trong truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov, chúng tôi rút ra những kết luận
sau:
1. Mạch ngầm văn bản trong truyện
ngắn và truyện vừa của Chekhov bắt nguồn từ nhu cầu nội tại trong những nguyên
tắc sáng tác của Chekhov.
2. Mạch ngầm văn bản trong sáng tác
của Chekhov được tạo dựng một cách hết sức kín đáo không những chỉ bởi sự lặp
lại một cách giản thiểu của các tín hiệu ngôn từ được “tình cờ hoá”, “đời
thường hoá” phản ánh trước hết vào tâm trạng nhân vật, mà còn bằng cả những tín
hiệu thuần tuý ngữ cảm, ngữ nghĩa “toát lên” từ sự đối sánh các lát cắt khác
nhau trong chỉnh thể tác phẩm; những tín hiệu lặp lại của mạch ngầm không nổi
hẳn lên trên bề mặt văn bản mà chỉ ẩn hiện thấp thoáng sau những con chữ. Mạch
ngầm với những tín hiệu “ẩn khuất” như vậy tạo được một hiệu quả gián cách động
cho văn bản.
3. Tính trữ tình ngầm ẩn thể hiện
sự đồng cảm của Chekhov đối với thế giới nghệ thuật mà ông miêu tả không triệt
tiêu hàm ý “mỉa mai nội tại, hay mỉa mai khách quan” toát lên từ toàn bộ chỉnh
thể tác phẩm tạo khoảng cách tự sự/sử thi giữa ông và cả độc giả với thế giới
ấy. Trong các truyện ngắn và truyện vừa của Chekhov mạch ngầm tự sự và mạch
ngầm trữ tình song song tồn tại. Mạch ngầm tự sự trong truyện ngắn và truyện
vừa của Chekhov thường chỉ ra bi kịch của sự xa lạ giữa người với người, bi
kịch của cái đời thường với tất cả sự quẩn quanh, bế tắc, nhỏ hẹp của nó; đó là
sự trớ trêu của cuộc sống con người không được làm người thật sự. Còn mạch ngầm
trữ tình thường là niềm khát khao giao cảm giữa người với người, khát vọng thay
đổi cuộc sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới tinh thần tự do và phóng khoáng, để
con người thực sự người hơn. Mạch ngầm tự sự và mạch ngầm trữ tình hoà quyện
vào nhau trong một dòng chảy chung làm nên nét đặc sắc riêng cho các truyện
ngắn và truyện vừa của Chekhov.
Đối với thời đại của mình,
Chekhov quả đã “sáng tạo nên cách viết mới, hoàn toàn mới cho toàn thế giới”
như L.Tolstoy nhận định[29].
Nghệ thuật tạo dựng mạch ngầm văn bản của Chekhov mở ra một con đường mới cho
văn chương, con đường sẽ có những người kế tục xuất sắc sau này như F.Kafka,
W.Faulkner... và đặc biệt là E.Hemingway với “nguyên lý tảng băng trôi” của
mình. Đó là một con đường mở...
[1] K.Stanislavsky.
Toàn tập tác phẩm. T.1.Moskva,1954, tr.221.
[2] Di
sản văn học. T.68. Moskva,1960, tr.718.
[3] Xem:
A.Belkin. Đọc Dostoevsky và Chekhov. Moskva, 1973; N.Berkovsky. Về văn học Nga.
Leningrad, 1985; G.Bialưi. Chekhov và chủ nghĩa hiện thực Nga. Leningrad, 1981;
A. Esin. Chủ nghĩa tâm lý trong văn học cổ điển Nga. Moskva, 1988;
E.Polotskaya. Về thi pháp Chekhov. Moskva,2001.
[4] Xem:
V.A.Kukharenco. Giải nghĩa văn bản. Moskva, 1988, tr.181.
[5] A.P.Chekhov.
Toàn tập tác phẩm và thư tín. 20 T. Moskva, 1944-1951, T.XIII, tr.214-215. Tiếp
theo, những trích dẫn từ bộ sách này được chỉ ra ngay trên văn bản bài viết
trong ngoặc đơn, chữ số La mã chỉ số tập, chữ
số Arap chỉ số trang.
[6] Nhà
văn Nga bàn về lao động nghề văn. T.3. Leningrad, 1955, tr.368.
[7] A.P.Chudacov.
Thi pháp Chekhov. Moskva,1971, tr.173.
[8] A.P.Chudacov.
Sđd, tr.166,200.
[9] Z.Papernưi.
Sổ ghi chép của Chekhov. Moskva, 1976, tr.102.
[10] T.I.Sylman.
Mạch ngầm văn bản – đó là độ sâu văn bản // Tạp chí “Những vấn đề văn học”,
Moskva, 1969,No1, tr.94.
[11] Xem:
A.Chudacov. Sđd, tr.61-85.
[12] V.N.Volosinov.
Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ. Leningrad, 1929, tr.185.
[13] A.Chudacov.
Sđd, tr.136.
[14] Đoạn
đối thoại nổi tiếng về thứ “cá chiên có mùi” trong “Người đàn bà có con chó
nhỏ” thực chất cũng được xây dựng theo nguyên tắc này..
[15] A.Belkin
đã phân tích rất hay chi tiết lặp này trong cuốn sách của ông. Xem: A.Belkin.
Sđd, tr.192-195.
[16] Xem: N.Bercovsky.
Sđd, tr.268-269.
[17] D.Shostakovich.
Gần gũi nhất!// “Báo văn học”, Moskva, 28/I/1960. Xem thêm:
N.M.Phortunatov. Nhạc tính văn xuôi Chekhov.// Tạp chí “Khoa học ngữ văn”, Moskva, 1971, No3.
[18] N.Bercovsky. Sđd, tr.245.
[19] V.Ia.Lakshin. Lev Tolstoy và Chekhov.
Moskva, 1963, tr.447.
[20] N.Bercovsky. Sđd, tr.244.
[21] Dẫn theo: Vương Trí Nhàn. Sổ tay truyện
ngắn. Hà nội, NxbHNV, tr.112.
[22] Xem: E.Polotskaya. Sđd, tr.17-62.
[23] I.A.Gurvich. Đặc điểm của chủ nghĩa
hiện thực Chekhov.// Tạp chí “Những vấn đề văn học”, Moskva, 1966, No9,
tr.164.
[24] Truyện ngắn này đầu tiên được đăng trên
tạp chí “Dế mèn” No10 năm 1886 dưới bút danh “Người không có lá
lách”; năm 1899, để đưa truyện ngắn vào tuyển tập do A.Marks xuất bản, Chekhov
sửa lại về cơ bản giọng điệu người kể chuyện, lược bỏ và thay thế một số chi
tiết, thay đổi phần kết; có thể coi như truyện ngắn đã được thay hình đổi dạng
và trở thành một truyện ngắn mới, rất gần với các tác phẩm khác của nhà văn vào
những năm cuối đời; ở đây chúng tôi khảo sát truyện ngắn này trên văn bản sửa
lại năm 1899.
[25] Câu này Phan Hồng Giang dịch là “Ôi,
khuôn mặt nàng lúc ấy đáng yêu và ý nhị biết bao!” (A.Tsêkhôp. Truyện ngắn.
Moskva, Nxb Cầu vồng, 1988, tr.31) chúng tôi dịch lại cho sát với nguyên bản vì
cho rằng từ “trò chơi” (игра) được
Chekhov dùng ở đây có ý nghĩa đặc biệt giúp ta hiểu nhân vật hơn.
[26] "Nađia" là tên
gọi rút gọn của "Nađezđa" có nghĩa là "hy vọng". Cái tên
này cũng được sử dụng cho nữ nhân vật lạc quan nhất trong văn xuôi Chekhov –
Nađia trong “Vợ chưa cưới”.
[27] Bản in trên tạp chí năm 1886 có một kết
thúc hài hước: sau đoạn gửi lời theo gió lần cuối, chàng trai “đi ra từ phía
sau bụi rậm, không để Nađia kịp bỏ tay xuống và há miệng vì ngạc nhiên, chạy
tới bên cô...” và sau đó cưới cô làm vợ.
[28] L.Shestov. Sáng tác từ cái không có gì.
– “Những khởi điểm và kết cục”.S.Peterburg, 1908, tr.39.
[29] P.A.Xergeenco. Tolstoy và những người
đương thời của ông. Moskva,
1911, tr.226.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét