NGƯỜI ĐÁNH CÁ VÀ CON CÁ NHỎ CỦA A.PUSHKIN:
NỖI ĐAU THỜI ĐẠI VÀ HUYỀN THOẠI VỀ THÂN PHẬN CON
NGƯỜI
ĐỖ HẢI PHONG
Truyện cổ
tích bằng thơ là một mảng đặc biệt trong sáng tác của A.Pushkin. Mảng sáng tác
này gồm sáu truyện cổ tích được viết trong khoảng những năm 1830-1834: Lão
cố đạo và người làm công Balda, Vua Saltan, Người đánh cá và con cá nhỏ,
Nàng
công chúa chết và bảy tráng sĩ, Con gà trống vàng và Con
gấu cái (chưa hoàn tất).
Ngay từ khi vừa mới ra đời,
truyện cổ tích của Pushkin đã làm xôn xao văn đàn Nga bởi những ý kiến trái
chiều. N.Gogol thì hết sức thán phục những truyện “thuần Nga” này của Pushkin, còn V.Belinski lại coi đó chỉ là “những bông hoa giả”. Có điều, tuy tuyên
bố hầu hết truyện cổ tích của Pushkin chỉ là “kinh nghiệm giả dạng dân gian Nga không thành”, V.Belinski vẫn phải
coi Người
đánh cá và con cá nhỏ là trường hợp đặc biệt thể hiện tư tưởng nhân dân
và tài năng của nhà thơ có “tầm nhìn chim
ưng của Goethe”[1]. Bất chấp mọi sự khen
chê của văn giới, truyện cổ tích của Pushkin được tái bản đi tái bản lại, được
đưa vào chương trình phổ thông, nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong dân
gian và cho đến ngày hôm nay đã chinh phục độc giả thuộc nhiều tầng lớp, nhiều
thế hệ khác nhau trên thế giới.
Người đánh cá và con cá
nhỏ
(tên gọi đầy đủ là Truyện cổ tích về người đánh cá và con cá nhỏ[2]) của A.Pushkin được viết
xong ngày 14/10/1833, lần đầu tiên đăng trên tạp chí “Thư viện bạn đọc” vào
tháng 5/1835.
Về nguồn gốc cốt truyện Người
đánh cá và con cá nhỏ, tuy đây đó vẫn còn là vấn đề tranh luận[3], nhưng cho đến nay hầu hết
những nhà nghiên cứu Nga có uy tín đều khẳng định rằng tác phẩm của Pushkin bắt
nguồn từ câu chuyện dân gian của những dân tộc tây Slave ở Pomerania
- vùng bờ biển
Baltic nằm trên ranh giới giữa Balan và Đức. Câu chuyện này do họa sĩ và nhà lý
luận nghệ thuật P.0.Runge sưu tầm, rồi chuyển cho anh em Grimm để đưa vào tập Truyện
kể cho trẻ nhỏ và trong nhà (1812) với tiêu đề Truyện cổ tích về người đánh cá và bà vợ
tham lam của ông ta. Truyện được đánh số 19, tiêu đề có thể giản lược
thành Người đánh cá và bà vợ của ông
ta hay Hai vợ chồng người
đánh cá[4].
Chính câu chuyện trong tập Truyện kể
cho trẻ nhỏ và trong nhà của anh em Grimm này (với phiên bản có
chú thích xuất xứ năm 1822 từng được phổ biến rộng rãi trong giới trí thức Nga
những năm 1820) đã trở thành cội nguồn
cảm hứng cho tác phẩm của Pushkin[5]
và qua đó trở thành tiền đề cho truyện Con
cá vàng và Bà lão tham lam
trong tập Những truyện cổ tích dân
gian Nga (1859-1863) của A.N.Afanasiev.
Truyện
cổ tích bằng thơ Người đánh cá và con
cá nhỏ của Pushkin có nhiều bản dịch ra tiếng Việt khác nhau, nhưng phổ
biến nhất vẫn là bản dịch văn xuôi của Vũ Đình Liên và Lê Trí Viễn với tiêu đề Ông lão đánh cá và con cá vàng. Tiêu đề đó phần nào gợi
hướng tiếp cận tác phẩm như một câu chuyện thuần túy dân gian. Điều này đã làm
cho các tác giả Sách giáo khoa
THCS và cả một số nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ xem xét nó từ góc độ "sự
đòi hỏi quá đáng của người vợ" và "bài học đích đáng cho những
kẻ tham lam bội bạc"[6],
mà không chú ý đến ý nghĩa thời sự xã hội và triết lý nhân sinh của Pushkin ở
chiều sâu của tác phẩm.
Đối
chiếu câu chuyện dân gian với truyện của Pushkin, bên cạnh những nét tương đồng
cốt truyện không thể phủ nhận, chúng tôi nhận thấy có một số điểm khác biệt đặc
biệt quan trọng thể hiện dụng công sáng tạo thiên tài của Pushkin. Trên cơ sở
câu chuyện cổ dân gian nhấn mạnh motif "bà vợ tham lam", nhà thơ đã
sáng tác nên một tác phẩm vừa mang tinh thần thời sự nóng bỏng của thời đại
mình, vừa đưa ra triết lý sâu sắc về khát vọng tự do của con người trong mối
quan hệ với chính mình, với xã hội, tạo hóa, vũ trụ.
1. Nỗi đau thời đại
Khi
nói về sáng tạo của Pushkin trong Người
đánh cá và con cá nhỏ, giới nghiên cứu Nga đã ghi nhận những chi tiết
mang tính cụ thể - lịch sử đặc trưng cho
nước Nga cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX được nhà thơ đưa vào tác phẩm nhằm
tăng cường tính thời sự xã hội cho câu chuyện.
Thời
đại của Pushkin là thời đại chuyển mình nhức nhối của nước Nga nông nô chuyên
chế bước vào thời đại mới sau Cách mạng Pháp 1789. Mâu thuẫn quý tộc - nông dân
(thống trị - bị trị) và vấn đề tự do cho nhân dân, trên bình diện lịch sử, được
đặt trong mối quan hệ với ý thức xã hội về con đường phát triển của dân tộc
Nga: phát triển theo hướng gìn giữ "bản sắc Slave" hay "Âu
hóa" theo tinh thần Phương Tây? Khi sáng tác Người đánh cá và con cá nhỏ, tìm hiểu nguồn gốc câu chuyện
dân gian, Pushkin đã nghĩ đến điều này bởi vậy mà ông ghi chú cho bản thảo tác
phẩm của mình là "khúc ca Serbia thứ 18" và dự định đưa nó vào
tập Những khúc ca tây Slave.
Khát
vọng tự do trong mối quan hệ giữa quý tộc và nông dân được Pushkin triển khai
trong Người đánh cá và con cá nhỏ
đồng thời với việc nhấn mạnh "bản sắc slave" trong câu chuyện phần
nào thể hiện thái độ của nhà thơ về những vấn đề thời sự bức thiết của thời
đại, dân tộc.
Trong
câu chuyện dân gian, người đánh cá câu mãi mới được "một con cá bơn[7] to" tự xưng
là "hoàng tử bị phù phép", trong tác phẩm của Pushkin lần thứ
ba người đánh cá quăng chài thì được "một con cá nhỏ - không phải cá
thường, mà là một con cá vàng". Việc con cá "biết nói tiếng
người" làm cho người đánh cá trong cả truyện dân gian lẫn truyện của
Pushkin đều kinh ngạc. Song trong truyện dân gian, cá không nói gì về việc đền
ơn, mà khi xin tha chỉ nêu lý do "thịt tôi ăn chẳng ngon lành gì",
người đánh cá thả cá ra cũng chỉ vì lý do giản dị: "cá biết nói thì ta
sẵn lòng thả cho bơi đi ngay". Trong truyện của Pushkin, cá hứa sẽ
"đáp đền hậu hĩnh" khi cầu xin ông lão, nhưng ông lão thả cá
đi mà không cần đến lời hứa hẹn ấy: "Cá vàng ơi, trời phù hộ cho
ngươi/Ta chẳng cần ngươi đáp đền chi cả/ Ngươi cứ về lại biển xanh,/ vùng vẫy
ngoài khơi thỏa chí". Không nhìn nhận quyền năng của con cá từ góc độ
"lợi ích cho mình", mà đặt mình vào hoàn cảnh của cá hiện đang bị
bắt, mất tự do, phải tự chuộc mình, ông lão thả cho cá vàng đi và như gửi gắm
ước mơ của mình vào lời cầu chúc "vùng vẫy ngoài khơi thỏa chí".
Chủ đề người nông dân và khát vọng tự do trong tác phẩm của Pushkin được triển
khai chính từ lời cầu chúc ấy.
Trong
chuyện dân gian, đòi hỏi của bà lão tăng dần từ nhu cầu có một "nếp nhà
gianh" đến "lâu đài to xây bằng đá", rồi làm "nữ
vương"(König), "nữ hoàng"(der Kaiser),
"giáo hoàng"(der Papst) và cuối cùng là làm "Chúa
trời" những mong "sai khiến được mặt trời, mặt trăng mọc".
Từ lúc có được "nhà gianh" cho đến khi đòi có "lâu đài"
là "mươi, mười lăm ngày", còn sau đó hoặc ngay lập tức, hoặc
cứ sau một đêm tỉnh dậy đòi hỏi lại tiếp tục tăng tiến. Song ngay cả khi làm
đến "giáo hoàng" hai vợ chồng vẫn "cùng nhau đi ngủ",
dù bà vợ có dằn vặt chồng thì cũng vẫn chỉ như một người vợ "làm mình làm
mẩy": nghĩa là cũng chỉ đến buông lời "có đi hay không thì bảo?"
hoặc "ngồi im như khúc gỗ, chẳng đáp", hay "nhìn chồng
bằng con mắt dữ tợn". Mối quan hệ gia đình ở đây chưa đến nỗi bị phá
hủy bởi lòng tham của bà lão.
Đòi
hỏi đầu tiên của bà lão trong tác phẩm của Pushkin là "cái máng[8] mới" thay cho
cái cũ "đã sứt vỡ hết cả". Đây là sáng tạo thâm thúy của
Pushkin: hình ảnh "cái máng sứt vỡ" sẽ được láy lại ở cuối tác
phẩm ứng với câu thành ngữ Nga: "ngồi lại với cái máng sứt vỡ" hay
"về lại với cái máng sứt vỡ"[9],
có nghĩa là "tay trắng lại hoàn trắng tay". Chi tiết "nhà
gianh" trong đòi hỏi thứ hai được Pushkin định danh rõ hơn là "nhà
izba" đặc trưng cho người slave. Chi tiết đòi "lâu đài"
bị lược bỏ, đồng thời chi tiết đòi làm "nữ vương" được Pushkin
thay bằng đòi hỏi thứ ba của bà lão – đòi làm "đức bà quý tộc rường cột
(quốc gia)"[10]
(nhất phẩm phu nhân) nghiễm nhiên đã có "lầu cao", phục trang
sang trọng từ "đầu" đến "chân" và có "kẻ
hầu người hạ chuyên cần". Đòi hỏi thứ tư của bà lão, ước muốn làm
"nữ hoàng", được định danh thêm là "nữ hoàng tự do"[11]
sống trong "cung điện nguy nga". Truyện của Pushkin bỏ đi chi
tiết bà lão đòi làm "giáo hoàng" là chi tiết mang đậm mầu sắc
tôn giáo Tây Âu. Còn đòi hỏi cuối cùng, ước muốn làm "Chúa trời"
trong câu chuyện dân gian được thay bằng ước muốn làm "nữ chúa biển
khơi" (Long vương) để cá vàng "thành kẻ đầu sai" sẵn
sàng "phục vụ".
Quãng
cách thời gian giữa những đòi hỏi của bà lão cũng được Pushkin thay đổi. Những
ước muốn đầu tiên của bà lão ("cái máng", "nhà izba",
"nhất phẩm phu nhân") được đưa ra liên tiếp đòi hỏi phải thực
hiện "ngay lập tức", nhưng từ ước muốn trở thành "nữ
hoàng" trở đi thì thời gian giãn ra thành quãng cách "một, đôi
tuần". Qua giai đoạn "bột phát" với những ước muốn mới chỉ
liên quan đến vật chất và quyền lực lớn những chưa phải là tối thượng, bà lão
cần phải có thời gian để suy ngẫm trước những đòi hỏi lớn lao hơn.
Những
đòi hỏi của bà lão trong truyện của Pushkin tăng tiến từ ước muốn vật chất tầm
thường đến nhu cầu quyền lực tối thượng thể hiện khuynh hướng vật chất hóa khát
vọng phổ biến trong thời đại của Pushkin. Thái độ của bà lão với ông lão hầu
như không được soi chiếu từ góc độ vợ chồng: bà vợ ngay từ đầu đã trịch thượng
"chửi mắng" ông lão là "đồ ngu", là "thằng
nhà quê" (mujik), tạm thỏa mãn ý nguyện thì "bắt xuống quét
dọn chuồng ngựa", tức giận thì "nổi trận lôi đình tát vào mặt
ông lão", hoặc thờ ơ "chỉ liếc nhìn qua, rồi lệnh đuổi đi",
hoặc sai khiến và đe dọa xâm phạm tự do "nếu không đi ta sẽ cho người
lôi đi". Thực chất, mối quan hệ giữa ông lão và bà lão là mối quan hệ
giữa kẻ thống trị và người bị trị. Tác phẩm của Pushkin thể hiện nỗi đau thời
đại của nhà thơ khi mối quan hệ thống trị - bị trị trở nên phổ biến, nó chi
phối và tha hóa cả một trong những mối quan hệ thiêng liêng nhất của con người -
quan hệ vợ chồng. Đối với bà lão biểu hiện đầu tiên của tự do là có những gì
mình muốn và quyền lực đối với người khác. Quyền lực đi đôi với bạo lực. Khi
làm "nhất phẩm phu nhân" có những "kẻ hầu người hạ
chuyên cần", mụ "đánh họ, túm đầu, kéo tóc". Khi làm
nữ hoàng, mụ có xung quanh cả một "bầy lính gác giáo mác vác vai hung
dữ" để thể hiện quyền lực. Chính ý thức về mối quan hệ thống trị - bị
trị ấy trực tiếp dẫn đến đòi hỏi cuối cùng của bà lão là được thống trị cả biển
cả và cá vàng - phép lạ: "Ta muốn làm nữ chúa của biển khơi/ Để được
sống ngoài đại dương - biển cả/ Để cá vàng phục vụ cho ta/ Và thành kẻ đầu sai
sẵn bên ta mọi lúc".
Trong
xã hội ngự trị của vật chất và quyền lực, vấn đề tự do được đặt ra bức thiết
hơn bao giờ hết. Vấn đề ấy ở nước Nga nông nô chuyên chế trong thời đại của
Pushkin không tách biệt khỏi mối quan hệ "nông dân - quý tộc". Khi
tuyên bố muốn làm "nữ hoàng", bị ông lão phản đối, bà lão
"tát vào mặt chồng sỉ vả": "Thằng nhà quê kia, dám cãi lại ta ư/ Cãi lại ta, một quý bà
quý tộc?". Trục quan hệ "nông dân - quý tộc" thực
chất được đồng nhất với quan hệ "nô lệ - tự do". Cách định
danh "nữ hoàng tự do" qua lời bà vợ toát lên ý vị mỉa mai chua
xót: bà lão tự khinh bỉ chính mình như "một mụ nhà quê mạt hạng",
vậy nên nhất nhất phải đòi làm "nhất phẩm phu nhân", rồi
"nữ hoàng", "Long vương". Đó là sự thể hiện của
quan niệm lệch lạc về tự do xuất phát từ tâm lý của những "con người nhỏ bé".
Quan niệm ấy dẫn đến điều đau xót hơn nữa là chính cả "nhân dân"
cũng nương theo sức mạnh cường quyền: khi thấy ông lão bị "nữ hoàng"
không thèm để ý, "chỉ liếc nhìn qua, rồi lệnh đuổi đi", đám
quan lại, quí tộc "túm cổ đẩy chúi đầu" ông ở cửa, thị vệ chạy
lại "mác rìu chút nữa chém rơi đầu", còn "dân chúng"
không những không thương xót ông mà còn cất lời mỉa mai, "giễu cợt",
trách ông lão: "chớ thấy sang bắt quàng làm họ"[12].
"Thái
độ" của biển khơi đối với mỗi lần ra biển của ông lão theo yêu cầu của bà
vợ được thể hiện theo lối tăng cấp vốn có sẵn trong câu chuyện dân gian. Yếu tố
này vẫn được Pushkin giữ lại trong tác phẩm của mình, chỉ chuốt gọn hơn về câu
chữ, nhấn mạnh màu sắc và những biến động trên mặt nước biển khơi. Tương ứng
với năm điều ước tăng dần của bà lão và năm lần ra biển của ông lão: “Biển
khơi sóng gợn lăn tăn” ® “Biển xanh nhuốm
đục” ® “Biển xanh nổi sóng không yên” ®
“Biển xanh đen xậm lại” ® “Giông tố đen tối
sầm mặt biển:/Sóng nối đuôi nhau giận dữ dâng trào/ Cứ thế ầm ào,
thét gầm, gào rống”. Yếu tố dân gian này được Pushkin sử dụng không chỉ để
thể hiện phản ứng của tự nhiên, vũ trụ đối với lòng tham của bà lão, mà còn đối
với cả thái độ thụ động của ông lão. Một lần nữa, như Pushkin từng viết về
"nhân dân thanh bình cứ gặm cỏ đi thôi" trong bài thơ Người gieo giống tự do trên đồng vắng
(1823), nhà thơ tỉnh táo nhìn thẳng vào bản tính thụ động, cam chịu của nhân
dân như tiền đề cho sự áp bức, mất tự do. Đáp lại những đòi hỏi không ngừng của
bà lão, ông lão về cơ bản chỉ biết phàn nàn, hoặc phản ứng bằng những câu nửa
mỉa mai, nửa van xin (phản ứng mãnh liệt nhất của ông là "kinh sợ"
khi nghe bà vợ tuyên bố muốn làm nữ hoàng, ông "rền rĩ":
"Mụ làm sao, ăn phải bả gì chăng?/ Đến đi đứng nói năng còn chẳng biết/
Làm trò cười cho cả quốc gia ư?"), thế rồi cuối cùng ông lão cũng vẫn
"không một lời dám trái", câm lặng, "lóc cóc",
"lủi thủi" đi ra biển than vãn với cá vàng về "mụ già
quẫn trí", "nổi loạn", "đáng nguyển rủa",
"chẳng để già này được yên thân", và cầu xin cá giúp đỡ. Ông
lão đánh cá trong tác phẩm không phải không có ước mơ ("vùng vẫy ngoài
khơi thỏa chí"), nhưng ước muốn tự do của ông không thể trở thành hiện
thực: "chẳng cần được đáp đền chi cả", nhưng ông vẫn phải nghe
lời sai khiến của bà lão để đòi được đáp đền, muốn được "yên thân",
ông lại phải làm cho con cá chẳng được yên. Cái tâm "chẳng cần được đáp
đền chi cả" của ông lão lại là bạn đồng hành với sự cam chịu, khuất
phục. Tác phẩm của Pushkin nhức nhối nỗi đau cả về lòng tốt thụ động của con
người trong thời đại của ông.
Mối
quan hệ thống trị - bị trị tạo khoảng cách giữa hai giai tầng nông dân và quí tộc,
chi phối tất cả các mối quan hệ khác trong xã hội, làm cho xã hội phân rã; khát
vọng tự do xuất hiện cùng với quan niệm lệch lạc về tự do (đồng nhất với vật chất
và quyền lực vị kỷ), cùng với sự thụ động, cam chịu cố hữu chỉ làm cho vấn đề tự
do cho nhân dân ngày một trở nên nhức nhối hơn. Đó là những vấn đề nổi cộm của
xã hội Nga cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Nhấn mạnh những vấn đề này bằng
hệ thống hình tượng của mình, Pushkin kết nối cái "ngày xưa" trong câu
chuyện cổ với thời sự bức thiết của nước Nga trong thời đại của ông. Hơi thở của
thực tại đương đại đã làm cho tác phẩm của Pushkin trở nên hiện đại, tươi mới,
dường như hoàn toàn khác với câu chuyện dân gian chủ yếu hướng tới bài học
"thưởng Thiện phạt Ác" không mang tính lịch sử cụ thể.
2. Huyền thoại về thân
phận con người
Bình
diện thời sự không lấn át bình diện huyền thoại trong Người đánh cá và con cá nhỏ, mà chỉ cộng hưởng với nó, làm
cho nó trở nên lung linh đa nghĩa. Yếu tố huyền thoại cổ xưa được xác định bởi
motif “vai trò người vợ trong quá trình nhận thức thế giới và chính mình” tiềm
ẩn trong câu chuyện dân gian được Pushkin “giải cấu trúc” và kiến tạo lại thành
một chỉnh thể huyền thoại mới mang đậm cảm quan “hiện sinh” về thân phận con
người trong thế giới hiện đại.
Trong
nguyên bản, phân biệt với câu chuyện dân gian Hai vợ chồng người đánh cá,
Pushkin xác định tiêu đề cho tác phẩm của mình là Người đánh cá và con cá
nhỏ: chỉ đề cập đến "người đánh cá" (xác định lĩnh vực
hoạt động của nhân vật, không nhấn mạnh tuổi tác) và "con cá nhỏ"
(xác định đối tượng, không nhấn mạnh giá trị - phép lạ). Trọng tâm ý nghĩa ở
đây dịch chuyển từ motif "bà vợ tham lam" sang mối quan hệ giữa người
đánh cá và con cá. Yếu tố phép lạ ("con cá vàng" và khả năng
đáp ứng nguyện vọng một cách kỳ diệu), vốn có chức năng thực thi việc “đổi đời”
– "thưởng Thiện phạt Ác" ở phần kết mỗi câu chuyện cổ tích, ở đây
được Pushkin chuyển vào phần diễn biến hành động ở giữa câu chuyện làm cơ sở
tạo dựng tình huống thử thách. Trên thực tế, phép lạ ở đây mất đi sức mạnh thiêng
liêng của nó, chỉ còn có ý nghĩa tình huống. "Chẳng cần chi cả",
ông lão trong truyện của Pushkin coi "con cá vàng" hay "con
cá nhỏ" thực chất cũng đều như nhau. "Con cá vàng biết nói
tiếng người" đối với ông lão chỉ thuần túy là sự lạ, đáng ngạc nhiên
mà ông "chưa từng thấy", hoàn toàn không có ý nghĩa vị kỷ,
thực dụng. Sự bất biến ở đầu và cuối truyện phá hủy ý nghĩa của mọi sự biến đổi
bên trong diễn trình hành động.
Câu
chuyện dân gian chỉ giới thiệu về hai vợ chồng người đánh cá sống "trong
một túp lều cũ kỹ sát ven biển", như để tô đậm thêm sắc màu huyền
thoại, Pushkin nhấn mạnh “ông lão với bà lão của mình” sống "mãi
tít ngoài biển xanh" và xác định thời gian "tròn ba mươi năm
và ba năm" (quãng thời gian “ba mươi năm và ba năm” được nhấn
lại một lần nữa qua lời trực tiếp của ông lão khi ngạc nhiên về con cá biết nói
tiếng người). Hệ thống biểu tượng Thiên chúa giáo trong tác phẩm bắt đầu được
triển khai chính từ chi tiết này. Một mặt, motif “người đàn ông với người đàn
bà của mình” trong không gian mang sắc màu huyền thoại gợi liên tưởng đến câu
chuyện Adam và Eve trong Kinh Thánh. Mặt khác, đối với người theo đạo Thiên
Chúa, ba mươi ba năm ứng với một đời người: đó là tuổi của Đức Kitô lúc bị đóng
đinh lên cây thập giá. (Nhìn từ góc độ văn hóa này, “cái máng” trong đòi
hỏi đầu tiên của bà lão đồng thời gợi liên tưởng đến “máng cỏ” nơi Đức
Kitô sinh thành). Số ba trong “ba mươi năm và ba năm” còn được Pushkin láy
lại trong tình tiết ông lão ba lần quăng chài, đến lần thứ ba mới bắt được cá
vàng (trong câu chuyện dân gian chỉ nói là "buông câu hết giờ này sang
giờ khác"). Số ba được láy lại như sự nhấn mạnh cảm quan vũ trụ dân
gian cổ xưa, nó tương ứng với ba nhân vật trung tâm “người đánh cá - con cá -
bà vợ”, song nó cũng đồng thời được đan cài với quan niệm về vũ trụ của châu Âu
Thiên Chúa giáo ("Tam vị nhất thể” – “Троица, Trinitas").
Như vậy, có thể thấy, hệ thống biểu tượng Thiên Chúa giáo trong tác phẩm của
Pushkin được xây dựng trên cơ sở đan kết, đối sánh huyền thoại Giáng sinh
và huyền thoại về Tội lỗi đầu tiên: sự hiển hiện của cái Thiêng trong
cõi Tục (trong huyền thoại Giáng sinh) bị tráo đổi bằng ham muốn trần
tục nảy sinh trong không gian Thiêng (vườn Eden), ham muốn
thôi thúc Người phụ nữ (Eve) xui Người đàn ông đầu tiên (Adam)
thử “trái cấm” ý thức - khởi đầu cho cuộc sống “đày ải” của con người dưới trần
gian. Sự tráo đổi các thành tố của hai huyền thoại Thiên Chúa giáo nói trên thể
hiện khuynh hướng “giải thiêng” phá vỡ cấu trúc giáo điều của từng huyền thoại
đơn lẻ, xác lập cơ sở cho việc tạo dựng huyền thoại mới về thân phận Con người
trong Thời hiện đại.
Trong
nguyên bản tác phẩm, Pushkin kể rằng hai vợ chồng ông lão "sống trong
một căn hầm cũ kỹ"[13].
"Căn hầm" là nơi ở không ra hình thù của một căn nhà: hoặc nó
được khoét sâu xuống đất, hoặc nó được dựng trồi lên tạm bợ. Nếu không quan tâm
đến kích thước, có thể thấy “căn hầm” có hình thù không khác “cái
máng” là bao: nó có thể được khơi ra từ lòng đất như cái máng thuyền, hoặc có
thể “úp mai rùa” như cái máng úp ngược. Nếu lưu ý rằng “cái máng” trong
tác phẩm của Pushkin là một “cái máng giặt”, trên bình diện cảm quan vũ
trụ, mạch liên tưởng trong tác phẩm có thể được mở rộng liên kết với hình ảnh “biển
nổi sóng”. Trục hình tượng “Biển[14]
- Căn hầm - Cái máng” được triển khai trong tác phẩm thành một
mạch liên kết qua ba mắt xích lấp lửng theo chiều “rộng - hẹp”, hoặc “mở
ra - úp lại”. Trục hình tượng này được hỗ trợ bằng sự dịch chuyển vị thế
không gian của ông lão và bà lão theo mạch phát triển cốt truyện. Khác với câu
chuyện dân gian, ở đầu truyện của Pushkin, trong không gian thoáng rộng của
biển khơi, ông lão không “đi câu”, mà “quăng lưới”[15]
chụp xuống biển. Khi kéo lên được một con cá vàng, nắm trong tay vận mệnh của cá,
ông lão mở lưới ra tha cho nó, chủ động hòa vào khát vọng về khoảng không tự do
của biển. Nhưng sau đó, cam chịu tuân theo những đòi hỏi của bà lão, ông lão
thành kẻ đầu sai “sấp sấp ngửa ngửa” trong vận động miễn cưỡng “ra biển”
rồi “lộn lại”, lúc bị “sai xuống làm việc ở chuồng ngựa”, khi bị
đuổi “ra khỏi cửa”, và cuối cùng “giông tố đen sầm” như chụp
xuống, bủa vây ông trong hoàn cảnh không lối thoát. Vị thế không gian của bà
lão gắn kết nhiều hơn với nơi ở, chỗ ngồi: ứng với hai điều ước chính đáng đầu
tiên, vị thế của bà lão không được xác định, song bắt đầu từ điều ước thứ ba,
vị thế của bà lão dịch chuyển từ “dưới bậu cửa sổ” lên “hiên lầu”,
rồi vào “sau bàn trong cung điện” (nghĩa là càng lên cao càng bị “úp
lại”, giam cầm trong những điều ước của chính mình). Đọng lại trong cảnh cuối
là hình ảnh bà lão “ngồi trên ngưỡng cửa” căn hầm trong sự đợi chờ vô
vọng. Sự dịch chuyển vị thế không gian của hai nhân vật trong tác phẩm của
Pushkin không cùng hướng, không hòa nhập, nhưng lại thể hiện một xu thế chung:
khoảng không thoáng rộng, lớn lao, trường cửu ở đây bị ép vào không gian chật
hẹp, nhất thời; ý thức rộng mở lòng mình bị “chụp xuống”, chịu sự đè nén của
tham vọng thu vén, quyền lực vị kỷ, nhỏ nhen và áp lực số phận.
Xung
đột giữa hai lẽ sống dẫn đến một kết cục buồn thể hiện qua kết cấu vòng tròn
của tác phẩm. Tác phẩm kết thúc bằng việc "biển nổi sóng ầm ầm",
cá vàng "quẫy đuôi lặn sâu xuống đáy biển", còn trước mắt ông
lão là hình ảnh "lại vẫn căn hầm đất", “mụ vợ xưa” và
"cái máng sứt vỡ". Huyền thoại của Pushkin chỉ ra sự bi đát
của thân phận con người. Con người trong tham vọng tự do tột cùng vị kỷ của
mình - tham vọng bằng mọi giá "nổi loạn" vươn lên ngang tầm
Thượng đế, cuối cùng lại trở về điểm xuất phát ban đầu, cũng chẳng khác gì kẻ
vị tha chỉ biết làm việc thiện, mong được "yên thân" mà chẳng
được yên thân. "Con cá vàng" chỉ là sự mê hoặc thử thách ý chí
con người trong hành trình tìm chân lý. Rốt cục, đó chỉ là một “con cá nhỏ”
được thả bởi lòng thương, hoặc vuột khỏi tay bởi lòng tham. Cuộc sống con người
thế nào vẫn chỉ là sự tồn tại bên "căn hầm cũ", “mụ vợ xưa”
với một "cái máng sứt vỡ"! Triết lý ấy mang đậm tinh thần của
huyền thoại sisyphe[16],
tinh thần sẽ được các nhà hiện sinh chủ nghĩa thế kỷ XX triển khai như tư tưởng
cơ bản về cuộc sống con người.
* * *
Đúng là nghệ thuật phỏng phong
cách dân gian của Pushkin đã đạt tới trình độ bậc thầy. Vì thế, nếu chỉ
nhìn trên bề mặt, người ta thấy các truyện cổ tích của Pushkin không có gì khác biệt với truyện cổ tích dân
gian. Song, khi phân tích kỹ chiều sâu cấu trúc của truyện kể, ta lại nhận ra
những nét khác biệt căn bản giữa tác phẩm của nhà văn với tư duy truyện kể dân
gian. Pushkin không phải nhà sưu tầm văn hóa dân gian, hình thức và "cái
cốt" của những câu chuyện dân gian được nhà văn sử dụng không chỉ để
"dân chủ hóa" văn học, mà cái chính là để truyền tải một "tiếng
nói mới" mang tính thời sự và cả ý nghĩa triết lý lớn lao về con người và
thế giới. "Ý nghĩa mới" trong những câu chuyện cổ tích của Pushkin
thực chất là sự cộng hưởng hàm ý của cốt truyện dân gian với hơi thở của thực
tại đương đại. Khuynh hướng gợi liên tưởng kết nối cái "ngày xưa"
trong câu chuyện kể với những vấn đề bức thiết trong thực tại đời sống đương
đại của dân tộc, nhân loại làm cho truyện cổ tích của Pushkin không chỉ có ý
nghĩa thời sự bức thiết mà còn trở thành tiếng nói dự báo về cảm quan con người
trong cuộc sống hiện đại.
Không
phải ngẫu nhiên, Người đánh cá và con cá
nhỏ được sáng tác trong cùng một năm với kiệt tác Con đầm Pich (1833) của Pushkin:
hai tác phẩm đồng thời trở thành những lời cảnh báo đầu tiên về cuộc khủng
hoảng tinh thần của con người trong thế giới đang có khuynh hướng trần tục hóa
đến dung tục. Người đánh cá và con cá
nhỏ của Pushkin là một trong những tác phẩm đầu tiên trong văn học thế
giới kiến tạo huyền thoại mới về thân phận bi đát của con người trong thế giới
không còn có Chúa trời và phép lạ, khi con người phải tự mình đối mặt với chính
mình trong những khát khao vươn lên ngang tầm Thượng đế, hay cố gắng tìm sự
bình yên trong chính bản thân mình. Từ Người
đánh cá và con cá nhỏ của A.Pushkin đến Trường ca về Đại pháp quan tôn giáo trong Anh em nhà Karamazov (1879-1880)
của F.Dostoevsky chỉ còn có một bước. Năm 1951 - 1952, trong Ông già và biển cả, E.Hemingway thay thế bà vợ
người đánh cá bằng cậu bé Manolin và để ông lão Santiago của mình kiên cường ra
khơi, rồi trở về với con cá khổng lồ chỉ còn là một bộ xương. Phải chăng đó là
sự tiếp tục mạch suy tưởng huyền thoại của Pushkin?
[1] V.Belinski.-
Toàn tập tác phẩm. T.II. Moskva,
1953-1959, tr.347.
[2] Nguyên bản tiếng Nga: Сказка
о рыбаке и рыбке.
[3] Xem:
I.M.Kolesnitskaya.- Truyện cổ tích // Pushkin: Tổng kết và những vấn đề nghiên cứu.
Moskva-Leningrad, 1966, tr.437-444.
[4] Xem: Kho tàng truyện cổ Grimm (Hữu Ngọc
dịch). Nxb VHTT, Hà Nội, 2001, tr.696-708.
[5] Xem Chú giải của B.V.Tomashevshky:
A.S.Pushkin.- Toàn tập tác phẩm: 10
tập. T.4. Leningrad, 1977, tr.435. Nguyên bản tác phẩm của A.S.Pushkin được
chúng tôi khảo sát và tự dịch lại cũng lấy từ cuốn sách này (tr.338-343).
[6] Xem: Sách
giáo khoa Ngữ văn 6, T.1. HN, Nxb
Giáo dục, 2006, tr.96; Nguyễn Thị Huế.- Thế
giới truyện cổ tích của Pushkin.//Về A.S.Pushkin. HN, Nxb Văn học, 1999,
tr.102.
[7] Trong
bản dịch của Hữu Ngọc là "cá đìa"
(Sđd, tr.696). Đây là giống cá thuộc về loại có tên khoa học là Рleuronectes.
[8] Nguyên
bản tiếng Nga: "корыто" – có
nghĩa là cái chậu gỗ, máng giặt hoặc máng thức ăn cho gia súc. Trong bản dịch
của Vũ Đình Liên và Lê Trí Viễn dịch là "cái máng lợn", theo
chúng tôi, không thích hợp với hoàn cảnh sống của vợ chồng người đánh cá. Đối
với trường hợp này hiểu là "cái máng giặt" có lẽ thích hợp hơn
cả.
[9] Tiếng
Nga: "сидеть (оказаться) у разбитого корыта " hoặc "возвращаться
к разбитому корыту". Xem: Từ điển
thành ngữ tiếng Nga, Moskva, Nxb Tiếng Nga, 1986, tr.208.
[10] Trong
nguyên bản tiếng Nga bà lão tuyên bố: "Ta
muốn làm đức bà quí tộc rường cột (quốc gia)" ("Хочу быть столбовою
дворянкой").
[11] Trong
nguyên bản tiếng Nga bà lão tuyên bố: "ta
muốn làm nữ hoàng tự do" ("хочу быть вольною царицей"). Chi
tiết này gợi liên tưởng đến thực tại lịch sử nước Nga cuối thế kỷ XVIII dưới
triều đại của nữ hoàng Ekaterina II.
[12] Nguyên bản là một thành ngữ tiếng Nga:
"Не садися не в свои сани" – "Chớ ngồi vào xe trượt không phải của
mình".
[14] Để tập trung nhất quán vào hình tượng “biển” xuyên suốt tác phẩm,
Pushkin đã thay thế “Chúa trời” trong điều ước cuối của bà lão trong chuyện dân gian bằng “nữ chúa biển khơi”.
[15] Nguyên
bản tiếng Nga: “закинул невод” – “quăng chài, quăng lưới”. Từ “невод” (“lưới
chụp”) trong tiếng Nga gần âm và dễ gợi liên tưởng đến từ “небосвод” (“vòm
trời”).
[16] Trong thần thoại Hy Lạp có Sisyphe là con của Éole, thần Gió, và là vua xứ Corinthe, phạm tội với thánh
thần, nên khi chết xuống âm phủ bị trừng trị bằng hình phạt bắt vần một tảng đá
lớn từ chân núi lên đỉnh núi; do sức Sisyphe có hạn mà tảng đá lại nặng nên cứ
vần lên gần tới đỉnh, tảng đá lại lăn xuống và Sisyphe phải lặp đi lặp lại mãi
không thôi công việc nặng nề, nhàm chán chẳng đem lại kết quả. Huyền thoại này
được nhà hiện sinh chủ nghĩa A.Camus coi là điển hình nhất cho thân phận con
người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét